Kính
gửi:
Quốc
hội
Nước
Cộng
hòa
Xã
hội
Chủ
nghĩa
Việt
Nam
Chúng
tôi,
các
tổ
chức
sau
đây,
gồm
Mạng
lưới
Sông
ngòi
Việt
Nam
(VRN),
Trung
tâm
Con
người
và
Thiên
nhiên
(PanNature),
và
Trung
tâm
Hỗ
trợ
Quản
lý
Tổng
hợp
Tài
nguyên
nước
(Ciwarem),
cùng
hoạt
động
vì
mục
tiêu
bảo
vệ
môi
trường
và
phát
triển
bền
vững,
cùng
chia
sẻ
mối
quan
tâm
về
tác
động
xã
hội,
môi
trường
mà
các
dự
án
thủy
điện
đã
và
đang
gây
ra.
Chúng
tôi
có
một
số
kiến
nghị
gửi
đến
quý
đại
biểu
quốc
hội
về
vấn
đề
quy
hoạch
và
quản
lý
các
dự
án
thủy
điện
của
Việt
Nam
như
sau:
Thông
tin
Cơ
sở
để
kiến
nghị:
Với
mạng
lưới
sông
ngòi
tương
đối
dày
và
điều
kiện
địa
hình
thuận
lợi,
Việt
Nam
được
coi
là
một
trong
những
quốc
gia
có
tiềm
năng
về
thủy
điện.
Trong
hơn
20
năm
qua,
nguồn
tiềm
năng
này
đã
được
khai
thác
mạnh
mẽ
phục
vụ
cho
mục
tiêu
phát
triển
kinh
tế
-
xã
hội
của
đất
nước.
Hiện
nay,
Việt
Nam
có
268
công
trình
thủy
điện
lớn
vừa
và
nhỏ
đã
đi
vào
vận
hành,
205
dự
án
đang
được
xây
dựng
và
hàng
ngàn
hồ
chứa
đã
được
quy
hoạch.
Không
thể
phủ
nhận
trong
nhiều
năm
qua,
thủy
điện
đã
góp
phần
quan
trọng
trong
việc
đáp
ứng
nhu
cầu
năng
lượng
của
quốc
gia.
Theo
số
liệu
của
EVN,
thủy
điện
hiện
đóng
góp
45,17%
tổng
sản
lượng
điện
của
mạng
lưới
điện
toàn
quốc.
Tuy
nhiên,
bên
cạnh
một
số
đóng
góp
cho
các
mục
tiêu
phát
triển
kinh
tế
xã
hội,
góp
phần
bảo
đảm
an
ninh
năng
lượng,
việc
phát
triển
thủy
điện
quá
nhanh
và
nóng
đã
bộc
lộ
nhiều
bất
cập.
Thủy
điện
đã
gây
ra
nhiều
tác
động
tiêu
cực
đến
môi
trường,
sinh
thái,
xã
hôi.
Một
diện
tích
khá
lớn
đất
rừng,
đất
nông
nghiệp
và
các
loại
đất
khác
đã
bị
chiếm
dụng
vĩnh
viễn
bởi
các
công
trình
này.
Theo
báo
cáo
của
Bộ
Công
thương,
từ
năm
1995
đến
nay,
Việt
Nam
đã
chuyển
đổi
50.000
ha
đất
rừng,
đất
nông
nghiệp
và
các
loại
đất
khác
để
làm
thủy
điện.
Thủy
điên
làm
thay
đổi
dòng
chảy
tự
nhiên,
cả
trong
mùa
lũ
và
mùa
kiệt,
làm
giảm
đáng
kể
lượng
phù
sa
xuống
hạ
lưu.
Thủy
điện
có
tác
động
lớn
đến
xã
hội,
một
số
lượng
dân
phải
tái
định
cư,
và
tùy
quy
mô
dân
số,
văn
hóa
bản
địa
ở
mức
độ
khác
nhau
sẽ
bị
tác
động.
Theo
thống
kê
của
Bộ
Nông
nghiệp
và
PTNT
đối
với
21
dự
án
thủy
điện
ở
12
tỉnh,
hơn
75.000
hộ
dân
phải
di
dời
phục
vụ
việc
xây
dựng
công
trình
thủy
điện
và
chịu
ảnh
hưởng
sâu
sắc
về
mặt
sinh
kế
và
đời
sống.
Ngoài
ra,
công
tác
quản
lý
các
dự
án
thủy
điện
vừa
và
nhỏ
còn
nhiều
lỏng
lẻo.
Theo
kết
quả
chương
trình
giám
sát
Quốc
hội,
có
tới
30%
thủy
điện
nhỏ
chưa
được
kiểm
định
về
mặt
an
toàn,
66%
chưa
có
phương
án
bảo
vệ
được
phê
duyệt
và
55%
số
đập
chưa
có
phương
án
phòng
chống
lụt
bão.
Hơn
nữa,
hàng
loạt
các
sự
cố
như
vỡ
đập
ở
Gia
Lai,
nứt
thân
đập
ở
Quảng
Nam
hay
xả
lũ
ở
Miền
Trung
và
Tây
Nguyên
trong
thời
gian
qua
gây
ra
những
mối
quan
ngại
lớn
về
vấn
đề
an
toàn
và
quản
lý
vận
hành
đập.
Trong
tháng
11/2013,
cùng
với
mưa
lớn,
hàng
loạt
các
hồ
thủy
điện
ở
miền
Trung
và
Tây
Nguyên
đã
đồng
thời
xả
lũ
với
lưu
lượng
lớn
gây
nhiều
thiệt
hại
về
người
và
tài
sản
cho
người
dân
vùng
hạ
du.
Theo
thống
kê
sơ
bộ
tại
miền
Trung,
có
tới
31
người
bị
chết,
9
người
mất
tích
và
225
ngôi
nhà
bị
cuốn
trôi
trong
đợt
lũ
vừa
qua.
Trước
thực
trạng
trên,
việc
Chính
phủ
loại
424
dự
án
thủy
điện,
chiếm
tới
34,2%
trong
tổng
số
1239
dự
án,
ra
khỏi
quy
hoạch
sau
quá
trình
rà
soát
là
một
quyết
định
cần
thiết.
Tuy
nhiên,
các
sự
cố
liên
quan
đến
thủy
điện
gần
đây
cho
thấy
thủy
điện
vẫn
tiềm
tàng
nhiều
rủi
ro
và
thách
thức.
Các
kiến
nghị:
Trước
bối
cảnh
trên
cùng
với
một
số
kết
quả
nghiên
cứu
hiện
có,
chúng
tôi
có
một
số
kiến
nghị
cụ
thể
về
vấn
đề
phát
triển
thủy
điện
như
sau:
1.
Thắt
chặt
việc
quản
lý
đối
với
công
tác
xây
dựng
thủy
điện:
Thực
trạng
trong
thời
gian
qua
cho
thấy
cần
thắt
chặt
hơn
nữa
công
tác
quản
lý
và
thực
hiện
quy
hoạch
cũng
như
đối
với
tất
cả
các
dự
án
thủy
điện
đang
vận
hành.
Các
cơ
quan
quản
lý
cần
khẩn
trương,
nghiêm
túc
đánh
giá
toàn
diện
quy
trình
vận
hành
của
các
công
trình
thủy
điện
đơn
lẻ
cũng
như
các
công
trình
bậc
thang,
vấn
đề
an
toàn
đập,
an
toàn
hạ
lưu.
2.
Quy
định
rõ
trách
nhiệm
và
thẩm
quyền
của
các
bên
liên
quan:
cần
quy
định
rõ
ràng
trách
nhiệm
của
từng
bên
(chủ
đầu
tư,
cơ
quan
chủ
quản,
chính
quyền
các
cấp)
trong
quá
trình
quản
lý
và
giám
sát
sự
vận
hành
của
nhà
máy,
đặc
biệt
trinh
khi
tích
nước
và
xả
nước.
3.
Tiếp
tục
rà
soát
quy
hoạch
phát
triển
thủy
điện:
Chính
phủ
cần
chỉ
đạo
các
cơ
quan
chức
năng
gồm
Bộ
Công
thương,
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
Nông
thôn
và
Bộ
Tài
nguyên
và
Môi
trường
phối
hợp
với
các
bên
liên
quan
tiếp
tục
rà
soát,
loại
bỏ
các
dự
án
không
đảm
bảo
an
toàn.
Trong
thời
gian
này,
tạm
thời
đình
chỉ
các
dự
án
đã
được
cấp
phép
nhưng
đang
có
những
vấn
đề
tác
động
chưa
được
làm
rõ,
đặc
biệt
là
các
dự
án
ở
vùng
miền
Trung
và
Tây
Nguyên
nhằm
đảm
bảo
an
ninh
môi
trường
và
an
toàn
cho
các
cộng
đồng
ở
khu
vực
hạ
lưu.
Ngoài
ra,
nên
xem
xét
trì
hoãn
việc
xây
dựng
các
dự
án
trong
quy
hoạch
chưa
có
đánh
giá
đầy
đủ
về
chi
phí
môi
trường
–
xã
hội.
4.
Thực
hiện
các
đánh
giá
thiệt
hại
liên
quan
đến
thủy
điện:
Hàng
loạt
những
sự
cố
gần
đây
cho
thấy
cần
mối
tương
quan
giữa
lợi
ích
kinh
tế
và
chi
phí
môi
trường
-
xã
hội
cần
được
nghiên
cứu
để
tạo
cơ
sở
cho
công
tác
xây
dựng
quy
hoạch
phát
triển.
Ngoài
ra,
các
thiệt
hại
từ
các
sự
cố
liên
quan
đến
thủy
điện
cần
tính
toán
và
lượng
hóa
một
cách
cụ
thể
thể
để
tạo
cơ
sở
cho
việc
yêu
cầu
bồi
thường
và
đảm
bảo
quyền
lợi
,
sinh
kế
cho
của
cộng
đồng
dân
cư
bị
tái
định
cư
và
bị
ảnh
hưởng.
5.
Thực
hiện
nghiêm
công
tác
ĐMC
đối
với
các
quy
hoạch
thủy
điện
các
lưu
vực
sông:
Nghị
định
số
29/2011/NĐ-CP
đã
quy
định
về
việc
đánh
giá
môi
trường
chiến
lược
(ĐMC)
đối
với
quy
hoạch
thủy
điện
cấp
quốc
gia.
Chính
phủ
cần
ưu
tiên
thực
hiện
ĐMC
cho
các
kế
hoạch
phát
triển
thủy
điện
trong
từng
lưu
vực
sông
để
xem
xét
các
vấn
đề
liên
quan
như
môi
trường,
xã
hội
và
tính
phù
hợp
đối
với
các
quy
hoạch
phát
triển
hay
kế
hoạch
bảo
tồn
thiên
nhiên
khác
trước
khi
cho
phép
chuyển
sang
giai
đoạn
sau.
5.
Ngoài
ra,
việc
cho
phép
cho
các
tổ
chức,
cá
nhân
Việt
Nam
đầu
tư
phát
triển
thủy
điện
trên
các
lưu
vực
sông
liên
quốc
gia
chung
với
Việt
Nam
(Mê
Công,
Hồng,
Mã,
Cả…)
cũng
như
việc
phát
triển
thủy
điện
của
các
nước
trong
khu
vực
(Trung
Quốc,
Lào,
Thái
Lan,
Campuchia)
có
ảnh
hưởng
tới
Việt
Nam
cũng
cần
được
nghiên
cứu
xem
xét
đầy
đủ.
Rất
mong
Quốc
hội
và
các
cơ
quan
chức
năng
xem
xét
các
kiến
nghị
trên
để
đảm
bảo
an
toàn
cho
cộng
đồng,
quyền
lợi
của
nhân
dân,
và
nâng
cao
tính
bền
vững
trong
các
chương
trình
phát
triển
nói
chung
và
thủy
điện
nói
riêng.
Xin
trân
trọng
cảm
ơn
|
THAY
MẶT
CÁC
TỔ
CHỨC
KIẾN
NGHỊ
|
Các
tổ
chức
cùng
soạn
thảo
và
gửi
bản
kiến
nghị
này
bao
gồm:
Mạng
lưới
Sông
ngòi
Việt
Nam
(VRN),
Trung
tâm
Con
người
và
Thiên
nhiên
(PanNature),
và
Trung
tâm
Hỗ
trợ
Quản
lý
Tổng
hợp
Tài
nguyên
nước
(Ciwarem).
Đây
là
những
tổ
chức,
mạng
lưới
cùng
hoạt
động
vì
mục
tiêu
bảo
vệ
môi
trường
và
phát
triển
bền
vững,
cùng
chia
sẻ
mối
quan
tâm
về
tác
động
xã
hội,
môi
trường
mà
các
dự
án
thủy
điện
đã
và
đang
gây
ra.