Cuộc
sống
thích
ứng
với
những
biến
đổi
khác
thường
Ở
Trại
Hè
Đại
sứ
Hàng
Việt
tí
hon
lần
thứ
6,
diễn
ra
từ
ngày
6-
10/6/2016
mới
đây
tại
Đà
Lạt,
có
một
trại
sinh
tên
là
Nguyễn
Văn
Tới,
học
sinh
trường
THCS
Châu
Văn
Liêm,
Ô
Môn
ở
Cần
Thơ.
Cứ
mỗi
độ
hè
về
là
Tới
phải
“đi
Bình
Dương”
để
phụ
làm
hồ,
phụ
làm
mộc
để
kiếm
tiền
đi
học.
Không
ít
lần,
Tới
cứ
muốn
nghỉ
học
luôn
để
“đi
Bình
Dương”
làm
với
mục
đích
kiếm
tiền
nuôi
mẹ
và
nuôi
đứa
em
mới
lên
5
tuổi.
Câu
chuyện
này,
được
cô
Lê
Thị
Trúc
Giang,
phụ
trách
đoàn
Cần
Thơ
của
Trại
hè
kể
lại,
trùng
khớp
thực
trạng
về
những
người
di
cư
mà
anh
Tám
Kịch,
nhân
vật
trong
bài
trước,
ở
xã
Mỹ
Hòa,
huyện
Tháp
Mười,
tỉnh
Đồng
Tháp
nói
về
địa
phương
mình.
“Đi
Bình
Dương”
là
từ
để
chỉ
những
người
từ
miền
Tây
di
cư
tìm
việc,
kiếm
sống,
theo
Ths
Nguyễn
Hữu
Thiện.
Thiếu
hụt
lao
động
“Tìm
được
lao
động,
bao
cơm
sáng,
trưa,
chiều
nhậu
rồi
về.
Sen
lên
giá
mừng
quá
cho
lai
rai,
sen
xuống
giá
buồn
quá,
nhậu
rồi
về.
Bữa
nào
có
đám
tiệc
trong
xóm,
lao
động
ngoài
đồng
phải
‘tăng
ca’
thêm
vài
tiếng
đồng
hồ”,
anh
Tám
Kịch
kể.
Theo
thông
lệ,
trước
Tết
Đoan
Ngọ
là
có
đợt
lũ
Tiểu
Mãn,
nước
trên
sông
Tiền,
sông
Hậu
đổi
màu.
Phần
lớn
cư
dân
chuẩn
bị
đón
lũ
để
cải
thiện
thu
nhập.
Vậy
mà,
đã
qua
Đoan
Ngọ,
vẫn
chưa
có
dấu
hiệu
nước
từ
thượng
nguồn
đổ
về
hạ
lưu.
Nhiều
người
tỏ
ra
bất
an
trước
những
diễn
biến
bất
lợi
do
cách
chặn
dòng
từ
thượng
nguồn
và
biến
đổi
khí
hậu
khó
lường
như
mùa
khô
vừa
qua.
3
năm
trước,
anh
Tám
Kịch
đã
nhận
ra
những
sự
khác
thường
này.
Cứ
tưởng
trồng
sen
sẽ
nhẹ
lo
hơn
trồng
lúa,
ai
dè
anh
lại
vướng
nạn
thiếu
nhân
công
bảo
vệ,
thu
hái.
Giá
thuê
nhân
công
mỗi
người
150.000-200.000
đồng/ngày
(6
giờ).
Một
ngày,
anh
Tám
cần
4-5
người
làm,
chi
phí
trả
nhân
công
mất
khoảng
1
triệu
đồng.
Thế
nhưng
ngày
càng
khó
tìm
nhân
công
thời
vụ.
Ít
nhất
đã
3
lần
ông
Võ
Hùng
Dũng,
giám
đốc
Phòng
thương
mại
và
Công
nghiệp
Việt
Nam
(VCCI),
chi
nhánh
Cần
Thơ,
đề
cập
đến
thực
trạng
di
cư
ở
ĐBSCL,
rằng
“năm
2009-2010
tỷ
lệ
di
cư
thuần
tới
8,5%
và
năm
2016
có
lẽ
còn
cao
hơn”.
Theo
ông
Dũng
thì
đó
là
chuyện
bình
thường
và
là
sự
tự
do
chuyển
dịch
trên
thị
trường
lao
động
do
nền
kinh
tế
vùng
không
đủ
sức
giải
quyết
công
ăn
việc
làm,
mong
muốn
cho
người
địa
phương.
Rừng
kết
hợp
với
nuôi
tôm
Lực
lượng
lao
động
ở
ĐBSCL
hiện
có
hơn
10,5
triệu
người,
nhưng
chỉ
có
10,4%
trong
đó
được
đào
tạo,
trong
khi
cả
nước
tỷ
lệ
này
là
19,9%.
Không
có
tay
nghề
và
học
vấn
thấp
nên
việc
di
cư
riêng
lẻ
rất
khó
sống.
Nhiều
gia
đình
cùng
di
cư
để
chia
sẻ
nhau
khiến
số
hộ
di
cư
ngày
càng
nhiều.
Trong
khi
đó,
theo
quy
hoạch,
đến
năm
2020,
hoạt
động
đào
tạo
và
dạy
nghề
ĐBSCL
bằng
và
vượt
các
chỉ
số
phát
triển
ngành
học,
bậc
học
bình
quân
chung
của
cả
nước.
Tỷ
lệ
lao
động
qua
đào
tạo
của
khu
vực
này
đến
năm
2015
đạt
45%,
năm
2020
vào
khoảng
60%.
Tại
Đồng
Tháp,
lao
động
(tới
tuổi)
được
bổ
sung
khoảng
24.000
người/năm.
Tỉnh
này
đưa
ra
kế
hoạch
nâng
tỷ
lệ
lao
động
qua
đào
tạo
lên
55,5%
vào
năm
2015
và
69%
năm
2020
để
đáp
ứng
nhu
cầu
thâm
dụng
lao
động
kỹ
thuật.
Nhưng
cân
đối
cung
cầu
cung
lao
động
năm
2015
đã
thiếu
69.000
lao
động.
Và
đó
là
chỗ
để
lực
lượng
di
cư
mới
từ
nơi
khác
tìm
tới.
Theo
The
Asia
Foundation,
năng
lực
của
người
di
cư
được
xem
như
tác
nhân
làm
thay
đổi
chiến
lược
sinh
kế
của
cá
nhân
và
gia
đình
dù
biết
rất
nhiều
khó
khăn
và
dễ
gặp
cảnh
đối
xử
không
công
bằng.
Cuộc
điều
tra
tại
Hậu
Giang
cho
thấy,
trình
độ
học
vấn
của
người
di
cư
ở
tỉnh
này
chủ
yếu
tập
trung
ở
bậc
học
cấp
hai
(57,14%)
nên
họ
chủ
yếu
chỉ
làm
công
nhân
(44,3%)
và
những
công
việc
giản
đơn
(chiếm
tỷ
trọng
37%).
Lý
do
một
phần
cũng
do
nhu
cầu
tuyển
dụng
nhiều
lao
động
giản
đơn
và
công
nhân
ở
các
khu
công
nghiệp,
tiểu
thủ
công
nghiệp
chỉ
cần
trình
độ
9/12.
Ở
bậc
cáo
hơn
thì
nghề
nhân
viên
bán
hàng
chiếm
(5,7%
và
chuyên
viên
có
bằng
cấp
chỉ
là
1,4%).
Đa
số
người
di
cư
gởi
tiền
về
nhà
dưới
4
triệu/năm
chiếm
tỷ
lệ
55,7%.
Số
lao
động
di
cư
gởi
tiền
về
nhà
từ
khoảng
4
đến
8
triệu/năm
chiếm
15%…
theo
TS
Huỳnh
Trường
Huy
và
nhóm
nghiên
cứu
thuộc
trường
Đại
học
Cần
Thơ.
Hoán
vị
Rất
nhiều
người
dân
sinh
sống
cố
cựu
ở
Xã
Vĩnh
Hậu
A,
huyện
Hòa
Bình,
tỉnh
Bạc
Liêu,
đã
phải
bỏ
đi
sau
những
năm
thất
bát.
Bằng
chứng
được
ông
Trần
Mạnh
Tính,
tổ
trưởng
tổ
hợp
tác
Thành
Đạt
–
quản
lý
rừng
do
tổ
chức
GIZ
thành
lập,
xác
nhận
là
nhiều
người
đã
bán
đất
cho
ông
và
những
đồng
hương
Nam
Định
trước
khi
ra
đi.
Một
số
người
người
mới
đến
may
mắn
được
GIZ
giúp
hỗ
trợ
cách
quản
lý,
cải
tạo,
khai
thác
rừng
kết
hợp
nuôi
tôm.
“Ở
quê
em
khắc
nghiệt,
đất
chật
người
đông.
Mỗi
khẩu
chỉ
được
một
sào
ruộng,
chi
phí
cao
không
đủ
sống,
con
cái
làm
sao
học
tới
nơi
tới
chốn?
Vào
đây
chăm
chỉ
thì
nay
đã
ổn,
con
được
ăn
học,
sinh
kế
ổn
định,
còn
có
tiền
về
quê”,
chị
Nguyễn
Thị
Lược,
kế
toán
Tổ
hợp
tác
người
Nam
Định,
người
mua
lại
2
ha
đất
nuôi
tôm
dưới
tán
rừng,
cùng
chồng
thuê
hai
ha
đất
nuôi
tôm
công
nghiệp,
cho
biết.
Chị
Lược
phác
thảo
một
bức
tranh
tương
lai
như
mong
đợi:
cả
3
con
được
đi
học,
đứa
lớn
đang
là
sinh
viên
năm
thứ
ba,
nhà
cửa
đàng
hoàng.
Ngay
cả
khi
chồng
nuôi
tôm
công
nghiệp
thất
bại
thì
nguồn
thu
dưới
tán
rừng
cũng
đủ
bù
đắp.
Tổ
đồng
quản
lý
rừng
kết
hợp
của
lớp
di
cư
từ
Nam
Định
Dự
án
kết
thúc
cách
đây
3
năm,
13
hộ
liền
canh
liền
cư,
quy
mô
2-3
ha/hộ
cùng
góp
vốn
tương
trợ,
chia
sẻ
kinh
nghiệm…
duy
trì
họp
lệ
3
tháng
1
lần,
6
tháng
họp
tổng
kết
đánh
giá,
chia
sẻ
cách
tổ
chức
sản
xuất,
sinh
hoạt
thích
ứng
những
thay
đổi
thất
thường
từ
biển,
nguồn
nước,
thời
tiết,
khí
hậu…
Vì
thế,
mùa
khô
năm
nay,
dù
nuôi
tôm
không
lời,
nhưng
không
đến
nổi
tuyệt
vọng
như
lớp
cố
cựu
thua
buồn
sau
khi
bán
đất,
mò
cua,
bắt
nghêu
cũng
không
xong!
“GIZ
hỗ
trợ
kỹ
thuật
nuôi
tôm
rừng,
mong
nhà
khoa
học
nghiên
cứu
nghề
mới
giúp
chúng
em.
Hiện
nay,
chưa
thấy
tư
vấn
nên
tự
nhà
em
đi
tìm
hiểu
thay
đổi
kinh
tế
như
nuôi
thêm
con
dê
bách
thảo…”
,
chị
Lược
nói.
Ông
trời
thì
lúc
nắng
lúc
mưa.
Những
lúc
mưa
nhiều,
ô
nhiễm
trên
bờ
chảy
xuống
ao
nuôi
tôm,
phèn,
tôm
sốc
phèn,
sốc
nhiệt
độ,
thiếu
oxy
,
thường
từ
12
giờ
đêm
tới
sáng.
Thực
ra,
sau
lớp
rừng
kết
hợp
là
rừng
xung
yếu,
tức
là
rừng
nguyên
sinh,
cần
phải
được
bảo
vệ,
lớp
di
cư
mới
có
nguồn
thu
từ
cua
(giá
180.000-200.000
đồng/kg,
cua
gạch
300.000
đồng/kg,
tôm
loại
1:
trên
250.000
đồng/kg
(chiếm
20%
sản
lượng),
cá
chẽm
thu
mỗi
năm
một
lần
vài
chục
triệu
đồng
mỗi
ha.
Tất
cả
đều
có
thể
gặp
rủi
ro
do
kiến
đổi
khí
hậu,
nhưng
so
với
người
bán
đất
trả
nợ,
tha
hương
kiếm
sống
thì
lớp
di
cư
mới
vẫn
còn
may
mắn
hơn
nhiều.
Làn
sóng
di
cư
Theo
báo
cáo
của
Văn
phòng
Liên
Hiệp
Quốc
tại
Việt
Nam,
cuộc
điều
tra
di
cư
ở
Việt
Nam
từ
năm
2004
cho
thấy
38%
những
người
di
cư
di
chuyển
cùng
với
gia
đình,
số
người
di
cư
từ
15-29
tuổi,
nữ
di
cư
sớm
hơn
nam.
Trước
đó,
kết
quả
của
cuộc
tổng
điều
tra
năm
1999
cho
thấy
tổng
số
người
di
cư
là
2,1
triệu,
nữ
chiếm
53,6%,
còn
nam
46,4%.
Năm
2009,
số
dân
di
cư
là
6,6
triệu
người
(7,7%
dân
số),
trong
đó
50%
người
di
cư
rời
tỉnh
về
miền
Đông
Nam
Bộ
vào
các
khu
công
nghiệp
và
Tây
Nguyên.
Lý
do
di
cư
do
là
do
nhiều
yếu
tố
trong
đó
gần
đây
yếu
tố
tác
động
biến
đổi
khí
hậu
khiến
việc
làm
ăn
thất
bại,
thu
nhập
giảm,
thiếu
việc
làm
cho
nên
họ
tìm
việc
làm
để
cải
thiện
thu
nhập.
Trước
đây,
tỷ
lệ
dân
ĐBSCL
di
cư
do
lũ
là
11,9
%
vào
năm
1998,
đến
năm
1993
con
số
này
là
6,15%
thay
vì
chỉ
1,3%
ở
thế
kỷ
trước.
Những
năm
gần
đây,
lý
do
di
cư
là
vì
làm
ăn
thất
bát,
thiên
tai,
biến
đổi
khí
hậu,
thậm
chí
trốn
nợ…
Báo
cáo
“Việt
Nam
2035”
cho
rằng
trong
tương
lai,
Việt
Nam
cũng
là
một
trong
những
quốc
gia
dễ
bị
tổn
thương
nhất
bởi
biến
đổi
khí
hậu,
trong
đó
dân
cư
và
hoạt
động
kinh
tế
tập
trung
tại
khu
vực
ĐBSCL
phải
chịu
rủi
ro
cao
nhất.
Rủi
ro
còn
tăng
lên
do
mức
tiêu
thụ
năng
lượng
gia
tăng
và
dựa
nhiều
vào
nhiệt
điện
than.
Những
năm
gần
đây,
mức
tăng
phát
thải
khí
nhà
kính
của
Việt
Nam
vào
loại
cao
trên
thế
giới.
Từ
năm
1990,
nguồn
di
cư
nội
khối
ASEAN
đã
tăng
mạnh.
Tính
theo
giá
trị
tuyệt
đối,
số
di
cư
trong
ASEAN
đã
tăng
từ
1,5
triệu
lên
6,5
triệu
từ
năm
1990
đến
2013.
Sự
chênh
lệch
về
kinh
tế
và
nhân
khẩu
học
đang
tác
động
đến
luồng
lao
động
di
cư,
chủ
yếu
là
lao
động
có
tay
nghề
thấp
và
trung
bình…
trong
đó
Malaysia,
Singapore
và
Thái
Lan
nổi
lên
như
những
trung
tâm
nhập
cư
lớn,
theo
báo
cáo
Cộng
đồng
ASEAN
2015
Quản
lý
hội
nhập
hướng
tới
thịnh
vượng
chung
và
việc
làm
tốt
hơn.
Không
phải
lo
thức
ăn
mỗi
ngày
ASEAN
có
3
nước
là
điểm
đến
chính
của
lao
động
di
cư
gồm
Malaysia,
Singapore,
và
Thái
Lan.
Cả
ba
nước
này
chiếm
gần
90%
trong
tổng
số
lao
động
di
cư
của
khu
vực
và
97%
trong
tổng
số
lao
động
di
cư
giữa
các
nước
trong
ASEAN.
Phần
lớn
là
lao
động
có
kỹ
năng
thích
ứng
công
nghệ,
kỹ
thuật
cao.
Các
nước
đặt
ra
vấn
đề
độ
che
phủ
và
tính
liên
thông
an
sinh
xã
hội
giữa
các
quốc
gia.
Trong
khi
đó,
tại
ĐBSCL,
di
cư
“tự
phát”
so
với
“di
cư
có
tổ
chức
“
(xuất
khẩu
lao
động)
là
hai
hình
ảnh
tương
phản
giữa
một
bên
hứa
hẹn
khoản
tích
lũy
để
làm
vốn
còn
một
bên
bán
đất
ra
đi.
Khi
những
khắc
nghiệt
do
biến
đổi
sự
sống
từ
sông
Mekong,
từ
tác
động
do
biến
đổi
khí
hậu,
nếu
làn
sóng
di
cư
nội
khối
ASEAN
tràn
vào,
thì
lúc
đó
không
có
chỗ
cho
những
lao
động
giản
đơn.
Vậy
thì
làm
sao
họ
quay
về?
Tan
ca
ở
khu
công
nghiệp
Hòa
Phú,
tỉnh
Vĩnh
Long,
nơi
thu
hút
nhiều
lao
động
nông
thôn
Hoàng
Lan
Theo
VietQ.vn