Ngày
nay
khoa
học
đã
cho
thấy
thủy
điện
gây
ra
những
thiệt
hại
đáng
kể
về
môi
trường
và
xã
hội.
Trong
bối
cảnh
khí
hậu
toàn
cầu
biến
đổi
theo
chiều
hướng
xấu,
cả
thế
giới
đang
nỗ
lực
tìm
kiếm
các
nguồn
năng
lượng
thay
thế
cho
nhiên
liệu
hóa
thạch
để
giảm
phát
thải
khí
nhà
kính
thì
thủy
điện
trở
nên
sáng
giá
vì
được
cho
là
nguồn
năng
lượng
sạch
và
rẻ.
Nhưng
có
đúng
như
vậy
không?
Khí
nhà
kính
từ
thủy
điện
Các
nghiên
cứu
gần
đây
cho
thấy
hồ
chứa
thủy
điện
ở
thượng
lưu
đập
và
kể
cả
đoạn
sông
ngay
phía
hạ
lưu
đập
có
phát
thải
một
lượng
đáng
kể
khí
methane
(CH4)
và
khí
carbonic
(CO2)
vào
khí
quyển.
Khí
CH4
theo
Ủy
ban
liên
chính
phủ
về
biến
đổi
khí
hậu
(IPCC)
là
một
loại
khí
nhà
kính
mạnh
gấp
21
lần
khí
CO2
trong
tiềm
năng
làm
nóng
lên
toàn
cầu,
tính
cho
cùng
giai
đoạn
100
năm.
Khi
hồ
chứa
bắt
đầu
tích
nước,
một
lượng
lớn
vật
liệu
hữu
cơ
từ
thực
vật
và
đất
bị
dìm
xuống
đáy
hồ,
đặc
biệt
là
nếu
diện
tích
bị
ngập
là
rừng.
Sau
đó
vật
liệu
hữu
cơ
từ
các
nguồn
khác
nhau
trong
lưu
vực
như
xác
bã
thực
vật,
dư
lượng
phân
bón
nông
nghiệp
trong
lưu
vực,
chất
thải
chăn
nuôi
sẽ
tiếp
tục
theo
các
nhánh
sông
dẫn
đến
hồ
chứa
và
bị
giữ
lại
trong
hồ
chứa.
Ngoài
ra,
hàng
năm
khi
mực
nước
hồ
hạ
thấp
theo
mùa,
thực
vật
sẽ
phát
triển
ven
bờ
và
sau
đó
bị
dìm
chết
khi
nước
hồ
lên
cao
trở
lại.
Tất
cả
những
vật
liệu
hữu
cơ
này
bị
lắng
xuống
đáy
hồ
tích
tụ
trong
điều
kiện
thiếu
oxy
ở
đáy
hồ.
Thêm
vào
đó,
trong
hồ,
phiêu
sinh
thực
vật
cũng
phát
triển
nhiều
hơn
so
với
sông
trước
đây.
Xác
bã
phiêu
sinh
thực
vật
chết
cũng
sẽ
lắng
xuống
đáy
hồ.
Có
sự
khác
biệt
lớn
giữa
môi
trường
nước
của
hồ
thủy
điện
và
dòng
sông
tự
nhiên
trước
đây.
Hồ
thủy
điện
rất
sâu
và
nước
bị
phân
tầng.
Trong
hồ
thủy
điện,
chỉ
lớp
nước
mặt
khoảng
5
mét
nhận
được
ánh
sáng
và
oxy,
còn
lớp
nước
từ
độ
sâu
khoảng
5
mét
đến
tận
đáy
hồ
không
có
ánh
sáng
và
thiếu
oxy
nên
rất
ít
loài
cá
sinh
sống
được.
Trong
điều
kiện
dòng
sông
chảy
tự
nhiên
thì
nước
được
pha
trộn,
nên
oxy
được
cung
cấp
tận
đáy
sông
và
vì
vậy
vật
liệu
hữu
cơ
sẽ
phân
hủy
trong
điều
kiện
có
oxy
nên
phần
lớn
carbon
phân
hủy
sẽ
tạo
ra
khí
CO2.
Còn
ở
lớp
nước
bên
dưới
trong
hồ
thủy
điện
do
thiếu
oxy,
sự
phân
hủy
dưới
tác
động
của
vi
sinh
vật
yếm
khí
làm
cho
phần
lớn
carbon
của
vật
liệu
hữu
cơ
bị
chuyển
sang
khí
CH4
mạnh
gấp
21
lần
so
với
CO2
trong
việc
làm
nóng
lên
toàn
cầu.
Điều
này
có
nghĩa
là
cùng
một
lượng
carbon
chứa
trong
vật
liệu
hữu
cơ,
nếu
bị
phân
hủy
trong
điều
kiện
của
hồ
thủy
điện,
sẽ
gây
nóng
lên
toàn
cầu
gấp
nhiều
lần
so
với
nếu
không
bị
dìm
dưới
đáy
hồ
và
phân
hủy
trong
môi
trường
trên
cạn.
Khí
methane
phát
thải
ra
khí
quyển
ở
vùng
lòng
hồ,
khi
đi
qua
turbine
phát
điện,
và
ở
đoạn
sông
phía
hạ
lưu
bên
dưới
đập.
Trong
lòng
hồ,
khí
methane
ở
đáy
hồ
thoát
ra
khí
quyển
qua
những
bọt
khí
sủi
lên
mặt
nước.
Tiến
sĩ
Phillip
Fearnside
của
Viện
Nghiên
cứu
quốc
gia
Brazil
ở
Amazon
(INPA)
giải
thích
rằng
khi
đập
thủy
điện
xả
nước
để
phát
điện
thì
lớp
nước
bên
dưới
đáy
hồ,
giàu
methane,
được
xả
qua
turbine
phát
điện
và
khi
đó
khí
methane
phát
thải
ra
không
khí
do
sự
thay
đổi
đột
ngột
về
áp
suất,
theo
định
luật
Henry.
Lượng
khí
methane
nào
còn
lại
trong
nước
thì
tiếp
tục
đi
xuống
hạ
lưu
và
sủi
bọt
về
sau.
Theo
Science
Daily,
ở
Thụy
Sỹ,
một
lượng
lớn
khí
methane
phát
thải
ra
không
chỉ
từ
các
hồ
chứa
thủy
điện
lớn
mà
còn
từ
các
hồ
chứa
của
đập
dâng
(run-of-river
dam),
đặc
biệt
là
vào
mùa
hè
khi
nhiệt
độ
nước
cao
hơn.
Lượng
phát
thải
CH4
hàng
ngày
của
hồ
Wohlen,
gần
thành
phố
Bern,
là
150
mi
li
gam/mét
vuông
mặt
hồ.
Khi
nhiệt
độ
ấm
lên
đạt
17
độ
C
thì
sự
phát
thải
tăng
gấp
đôi,
tương
đương
với
lượng
phát
thải
ở
các
đập
ở
vùng
nhiệt
đới.
Cũng
theo
Science
Daily
thì
đập
Aare
phát
thải
ra
150
tấn
methane
mỗi
năm.
Sự
phát
thải
từ
đập
Petit
Saut
ở
Guyana
thuộc
Pháp
đã
được
đo
trong
10
năm
đầu
sau
khi
đập
tích
nước.
Tổng
lượng
phát
thải
từ
đập
này
là
0,37
triệu
tấn
carbon/năm
trong
ba
năm
đầu,
sau
đó
giảm
xuống
khoảng
0,12
triệu
tấn
carbon/năm
trong
bảy
năm
kế
tiếp.
Theo
Mạng
lưới
Nam
Á
về
đập,
sông
ngòi
và
con
người
thì
tổng
lượng
phát
thải
theo
ước
lượng
của
Ivan
Lima
thuộc
Viện
Quốc
gia
nghiên
cứu
không
gian
của
Brazil
(INPE),
tổng
lượng
phát
thải
của
các
đập
lớn
của
Ấn
Độ
là
khoảng
45,8
triệu
tấn
khí
methane
mỗi
năm,
chiếm
khoảng
19%
tổng
lượng
phát
thải
khí
nhà
kính
của
Ấn
Độ.
Ông
Patrick
McCully,
Giám
đốc
của
Mạng
lưới
sông
ngòi
quốc
tế
(International
Rivers
Network),
nói
rằng:
“Không
may
là
nghiên
cứu
của
Lima
xuất
bản
quá
muộn
để
được
đưa
vào
các
báo
cáo
gần
đây
của
Ủy
ban
liên
chính
phủ
về
biến
đổi
khí
hậu
(IPCC)”
và
“Những
người
lập
chính
sách
về
khí
hậu
đã
đánh
giá
thấp
tầm
quan
trọng
của
methane
phát
thải
từ
đập.
IPCC
cần
phải
nhanh
chóng
giải
quyết
vấn
đề
này”.
Tiến
sĩ
Vincent
Louis
của
Đại
học
Alberta,
Canada
ước
lượng
rằng
lượng
phát
thải
khí
nhà
kính
từ
các
hồ
thủy
điện
đóng
góp
khoảng
7%
tiềm
năng
gây
nóng
lên
toàn
cầu
của
các
nguồn
khí
nhà
kính
do
con
người
gây
ra
đã
được
ghi
nhận.
Những
điều
này
cho
thấy
thủy
điện
không
hẳn
là
nguồn
năng
lượng
sạch,
không
có
phát
thải
khí
nhà
kính.
Ngoài
ra,
các
công
trình
thủy
điện
thường
dẫn
đến
sự
tàn
phá
rừng
bằng
nhiều
cách
bao
gồm
mất
rừng
tại
nơi
xây
dựng
đập,
diện
tích
rừng
bị
dìm
ngập
trong
lòng
hồ,
diện
tích
rừng
bị
phá
để
làm
đường
truyền
dẫn
điện,
và
khi
các
cộng
đồng
bị
tái
định
cư,
mất
đất,
mất
sinh
kế
sẽ
phải
trở
thành
“lâm
tặc
bất
đắc
dĩ”,
phá
thêm
rừng
để
sinh
sống.
Những
diện
tích
rừng
bị
mất
này
sẽ
mất
đi
chức
năng
hấp
thu
và
lưu
trữ
carbon.
Thủy
điện
có
rẻ
không?
Báo
Tuổi
trẻ
online
ngày
2-4-2012
cho
hay
“Trong
khi
ngành
điện
liên
tục
đòi
tăng
giá
do
thua
lỗ,
hầu
hết
các
doanh
nghiệp
thủy
điện,
chiếm
xấp
xỉ
50%
trong
cơ
cấu
điện
thành
phẩm
của
ngành
điện,
đều
lãi
lớn
trong
năm
2011”.
Như
vậy,
có
phải
thủy
điện
là
nguồn
năng
lượng
giá
rẻ
không?
Thực
chất,
nguồn
năng
lượng
là
thủy
điện
chỉ
rẻ
đối
với
nhà
đầu
tư
bởi
nhà
đầu
tư
chỉ
phải
chịu
các
loại
chi
phí
chính
là
đầu
tư,
vận
hành,
tái
định
cư
và
thường
không
phải
trả
những
chi
phí
khác
mà
xã
hội
và
môi
trường
phải
gánh
chịu. |
Ngày
nay
khoa
học
đã
cho
thấy
thủy
điện
gây
ra
những
thiệt
hại
đáng
kể
về
môi
trường
và
xã
hội.
Đập
làm
thay
đổi
môi
trường
nước,
môi
trường
đất,
ảnh
hưởng
thủy
sản,
nông
nghiệp,
và
vô
số
các
tác
động
tiêu
cực
do
sự
thay
đổi
dòng
chảy
tự
nhiên
đã
được
các
nhà
khoa
học
và
các
nhà
môi
trường
thảo
luận
nhiều.
Tuy
nhiên,
rất
khó
để
có
thể
tính
ra
bằng
tiền
toàn
bộ
chi
phí
do
tác
động
của
thủy
điện
gây
ra
vì
những
chi
phí
này
không
chỉ
ở
tại
chỗ
mà
còn
diễn
ra
trong
phạm
vi
địa
lý
rất
lớn,
có
khi
là
xuyên
biên
giới,
trong
khoảng
thời
gian
rất
dài,
số
người
gánh
chịu
chi
phí
cũng
rất
đông
và
đa
dạng,
trong
đó
người
nghèo
ở
nông
thôn
bị
ảnh
hưởng
nhiều
nhất.
Thực
chất,
nguồn
năng
lượng
là
thủy
điện
chỉ
rẻ
đối
với
nhà
đầu
tư
bởi
nhà
đầu
tư
chỉ
phải
chịu
các
loại
chi
phí
chính
là
đầu
tư,
vận
hành,
tái
định
cư
và
thường
không
phải
trả
những
chi
phí
khác
mà
xã
hội
và
môi
trường
phải
gánh
chịu.
Ngoài
ra,
nếu
đập
được
thiết
kế
và
vận
hành
an
toàn
thì
chi
phí
tháo
dỡ
đập
sau
khi
hết
hạn
sử
dụng
(thường
khoảng
50
năm)
chưa
được
tính
vào
chi
phí
của
nhà
đầu
tư.
Đó
là
chưa
kể
chi
phí
trong
trường
hợp
phải
tháo
dỡ
đập
do
thiết
kế
hay
xây
dựng
kém
chất
lượng,
không
an
toàn.