Chuẩn bị giống lúa mới & cây trồng thích nghi
- Thứ bảy - 25/06/2011 17:05
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Ở
nước
ta
đây
là
vùng
sản
xuất
nông
nghiệp
trọng
điểm,
trong
đó
đất
lúa
tạo
nguồn
lương
thực
chủ
yếu
và
chiếm
hơn
90%
sản
lượng
gạo
xuất
khẩu.
Tuy
nhiên,
đứng
trước
nguy
cơ
các
nhà
khoa
học
trong
vùng
đã
có
những
bước
chuẩn
bị
cho
tương
lai
và
đã
có
những
ghi
nhận
kết
quả
khả
quan
bước
đầu.
Tình
cờ
Mấy
năm
gần
đây
trước
thời
tiết
diễn
biến
khô
hạn,
nóng
bức
rồi
chuyển
mùa
mưa
giông,
bão
tố
dữ
dội…nông
dân
ĐBSCL
cảm
nhận
bằng
mắt
thường
đã
nhận
diện
thách
thức
không
còn
xa
ở
vùng
vựa
lúa
của
cả
nước.
Trong
khi
mùa
lúa
chính
đông
xuân
(ĐX)
thuận
lợi
thì
mùa
(hè
thu)
bắt
đầu
gặp
hạn
khô
đầu
vụ
và
tới
mùa
thu
hoạch
lại
gặp
mưa
dầm.
Nông
dân
cực
nhọc
hơn,
chi
phí
sản
xuất
tăng
nhưng
năng
suất
kém
hơn
vụ
ĐX.
Ở
những
vùng
đất
lúa
có
thể
tăng
vòng
quay
hiện
đã
tăng
vụ
thu
đông
(TĐ),
làm
lúa
mùa…để
có
thể
gia
tăng
thu
nhập
cho
nhà
nông.
Tuy
nhiên,
đứng
trước
tương
lai
thách
thức,
đất
lúa
ĐBSCL
sẽ
làm
gì,
cách
chuyển
đổi
nào
ứng
phó
có
khả
năng
thích
nghi
?
Theo
các
nhà
khoa
học
nghiên
cứu
chọn
tạo
giống
lúa
ở
Viện
lúa
ĐBSCL,
trong
về
việc
chọn
tạo
giống
lúa
chịu
mặn,
Viện
đã
thực
hiện
khá
lâu,
tuy
nhiên
lúc
đó
không
thực
sự
đầu
tư
nghiên
cứu
nhiều
vì
một
số
lý
do
như
sau:
mặn
chưa
nhiều
và
nông
dân
có
thể
tìm
giải
pháp
né
mặn;
Đất
ruộng
lúa
thí
nghiệm
của
Viện
không
bị
nhiễm
mặn,
do
đó
phần
lớn
các
thử
nghiệm
mặn
là
thực
hiện
trong
dung
dịch
nước
muối
ở
phòng
thí
nghiệm,
không
phải
ngoài
đồng
ruộng
bị
ảnh
hưởng
khắc
nghiệt
của
sức
nóng
chiếu
sáng
từ
mặt
trời,
môi
trường
đất
đai,
phèn
và
độ
mặn
tăng
lũy
tiến
sau
mỗi
lần
cho
nước
lợ
vào
ruộng
(nước
bốc
hơi,
mặn
thấm
xuống
đất).
Do
đó
trong
thời
gian
trước,
các
giống
lúa
có
khả
năng
chống
chịu
mặn
tương
đối
khá
như
OM1490,
AS996,
OM576
(Hầm
Trâu),
Tài
nguyên
đột
biến,
OM2395...đều
được
tuyển
chọn
và
phóng
thích
vào
sản
xuất
lúa
từ
những
chương
trình
lai
khác,
khi
trồng
rộng
trong
sản
xuất
thì
được
nông
dân
phát
hiện
có
khả
năng
chịu
mặn,
rồi
được
cán
bộ
khoa
học
kiểm
tra
lại
trong
phòng
thí
nghiệm.
TS
Võ
Công
Thành,
Trưởng
Bộ
môn
di
truyền
giống
nông
nghiệp
–
Khoa
nông
nghiệp
&
Sinh
học
ứng
dụng
trường
ĐH
Cần
Thơ
nói:
Từ
năm
2000
một
số
nhà
khoa
học
trường
ĐH
Cần
Thơ
đã
có
những
công
trình
sưu
tập
và
giữ
lại
những
giống
lúa
cổ
truyền.
Trong
đó
ở
vùng
ven
biền
ĐBSCL
từ
Long
An
qua
các
tỉnh
Tiền
Giang,
Bến
Tre,
Trà
Vinh,
và
sau
này
là
các
tỉnh
Sóc
Trăng,
Bạc
Liêu,
Cà
Mau,
Kiên
Giang.
Hồi
đó
chúng
tôi
ngạc
nhiên
với
giống
lúa
mùa
có
tên
địa
phương
như:
Nàng
Qướt,
Tiêu
Chùm,
Sỏi
Đá…có
khả
năng
chịu
mặn
tới
20%0,
nhưng
tiếc
là
năng
suất
rất
thấp,
chỉ
chừng
2-3
tấn/ha.
Vì
thế
có
những
nông
dân
vùng
ven
biển
nghèo
khó
và
trông
đợi
có
giống
lúa
nào
thay
thế
để
bớt
nghèo.
Hồi
đó
các
kỹ
sư
nông
nghiệp
cũng
chưa
ai
nghĩ
tới
tìm
giống
chịu
mặn
như
bây
giờ.
Thế
nhưng
từ
sự
tình
cờ,
TS
Thành
cho
biết
đang
chuẩn
bị
chương
trình
nghiên
cứu,
thanh
lọc,
thí
nghiệm
từ
những
giống
lúa
mùa
làm
chuẩn
để
lai
tạo
tìm
giống
mới.
Trong
giống
lúa
Nàng
Qướt
của
Tiền
Ging
xưa
kia
có
tính
năng
nổi
trội
là
là
thích
nghi
trên
vùng
đất
sát
mé
biển,
vùng
ngập
mặn
thường
xuyên.
Hay
giống
lúa
Sỏi
Đá
cứng
cây,
năng
suất
khá;
nguồn
giống
Đốc
Phụng,
Đốc
Đỏ
ở
Long
An…
Tín
hiệu
mới
TS
Phạm
Trung
Nghĩa,
Trưởng
Bộ
môn
Công
nghệ
sinh
học
-
Viện
lúa
ĐBSCL
cho
rằng,
từ
năm
2009-2013
cả
2
vùng
lúa
phía
Bắc
và
trong
Nam
đã
bắt
đầu
thực
hiện
đề
tài
chọn
tạo
giống
lúa
chịu
mặn
của
bộ
NN
&
PTNT.
Ở
phía
Nam,
Viện
lúa
ĐBSCL
thực
hiện
chọn
tạo
bộ
giống
chịu
mặn
với
kinh
phí
3
tỷ
trong
5
năm.
Do
thời
gian
từ
lai
tạo
-
tuyển
chọn,
cho
đến
khi
có
được
một
số
dòng
lúa
mới,
thuần
(không
còn
phân
ly
về
hình
thái,
đặc
tính
nông
học,..)
cần
ít
nhất
là
6-7
vụ
lúa.
Sau
đó
cần
khoảng
2-4
vụ
lúa
cho
việc
đánh
giá
về
năng
suất,
khảo
nghiệm
đặc
tính
của
giống.
Do
đó
thời
gian
cho
chọn
tạo
giống
là
tương
đối
dài,
cho
nên
mỗi
chương
trình,
đề
tài
chọn
giống
đều
có
phần
kế
thừa
nguồn
dòng/giống
lúa
từ
đề
tài
chọn
tạo
giống
lúa
khác
(cùng
hay
khác
mục
đích
lai
tạo)
đã
thực
hiện
trước
đó.
Từ
năm
2009
đến
nay
Viện
đã
bước
đầu
tìm
30
dòng
lúa
có
triển
vọng
chịu
mặn
là
những
dòng
lúa
kế
thừa,
được
phát
hiện
chịu
mặn
qua
nhiều
lần
thanh
lọc
trong
phòng
thí
nghiệm
và
bể
nhà
lưới.
Đánh
giá
về
những
dòng
lúa
triển
vọng
này
có
khả
năng
chịu
mặn
tốt
trong
sản
xuất
lúa
vùng
ĐBSCL
hay
không
còn
đang
được
phối
hợp
khảo
nghiệm,
đánh
giá
ở
một
số
trung
tâm
giống
của
các
tỉnh
như
SócTrăng,
Kiên
Giang,
Bến
Tre,
Bạc
Liêu...Từ
đây,
để
chọn
chính
xác
ra
một
giống
lúa
chịu
mặn
cũng
cần
ít
nhất
2
vụ
lúa
thử
nghiệm
tại
vùng
lúa
bị
nhiễm
mặn.
Tới
khi
biết
chính
xác
khả
năng
chịu
mặn
và
năng
suất
của
giống
lúa
mới,
Viện
lúa
sẽ
phải
đăng
ký
cho
giống
lúa
mới
này
được
khảo
nghiệm
quốc
gia
và
trong
thời
gian
ít
nhất
là
2-3
vụ
lúa
liên
tiếp
trước
khi
được
phép
cho
đăng
ký
công
nhận
giống.
Do
đó
từ
thời
gian
tìm
ra
những
giống
lúa
mới
được
xác
định
đến
triển
khai
nhân
rộng
trên
đồng
ruộng
mất
khoảng
1-2
năm.
TS
Nghĩa
cho
biết
thêm,
trong
nghiên
cứu
ngoài
việc
chọn
tạo
giống
lúa
chịu
mặn,
chúng
tôi
cũng
đang
rất
quan
tâm
đến
các
biện
pháp
kỹ
thuật
liên
quan
đến
canh
tác
lúa
như
sử
dụng
phân
bón
giàu
khoáng
vi
lượng-vitamin,
chế
phẩm
sinh
học,
hóa
chất
cải
tạo
đất,
kỹ
thuật
tưới
tiêu,
cải
tạo
đất,...
sao
cho
giúp
cây
lúa
chịu
đựng
tốt
hơn
trong
điều
kiện
bị
nhiễm
mặn.
Kết
hợp
được
giống
lúa
chịu
mặn
với
biện
pháp
kỹ
thuật
sẽ
giúp
tăng
tính
chịu
mặn
của
cây
lúa
lên
cao
hơn,
sản
xuất
lúa
trong
mùa
vụ
nhiễm
mặn
sẽ
an
toàn,
hiệu
quả
và
năng
suất
sẽ
cao
hơn.
Ngoài
tính
chịu
mặn
ra,
giống
lúa
mới
cần
phải
có
năng
suất
cao,
thời
gian
sinh
trưởng
ngắn,
kháng
sâu
bệnh,
thích
nghi
với
điều
kiện
tự
nhiên
thì
mới
được
bà
con
nông
dân
ưa
thích,
gieo
trồng
trong
sản
xuất.
Hiện
nay,
một
số
giống
lúa
mới
của
Viện
lúa
ĐBSCL
xác
định
có
khả
năng
kháng
mặn
ở
mức
từ
0,3-0,4%0
như
OM6976,
OM6677,
OM5464,
OM5629,
OM5166,...
đã
và
đang
được
khảo
nghiệm
ở
một
số
tỉnh:
Sóc
Trăng,
Kiên
Giang,
Bạc
Liêu,
Bến
Tre.
Kết
quả
khảo
nghiệm
ban
đầu
ghi
nhận
khá
khả
quan,
trong
đó
giống
lúa
OM5464
đang
được
đề
nghị
nhân
rộng
và
trình
Bộ
NN&PTNT
công
nhận
là
giống
lúa
sản
xuất
thử
trong
năm
2010.
Hai
giống
OM6976
và
OM5166
đang
được
tiếp
tục
khảo
nghiệm,
xác
định
biện
pháp
kỹ
thuật
thích
hợp
để
tăng
tính
chịu
mặn
và
năng
suất
của
giống.
Hai
giống
lúa
mới
này
đang
dự
kiến
xin
công
nhận
trong
năm
2011.
Hy
vọng
phía
trước
Đi
tìm
giống
lúa
thích
nghi
trong
điều
kiện
sản
xuất
mới,
TS
Võ
Công
Thành
xác
nhận:
Trong
2
năm
qua
2008-2009,
giống
lúa
BN
được
chọn
tạo
từ
giống
lúa
IR
50404
đột
biến
cho
thấy
khả
năng
thích
nghi
trên
vùng
đất
phèn,
chịu
hạn
ở
Đồng
Tháp,
Trà
Vinh
và
ở
Hậu
Giang
có
gần
400-500ha.
Giống
BN
chất
lượng
gạo
mềm
cơm,
hàm
lượng
amylose
trên
22%,
bạc
dụng
5%
(ngưỡng
cho
phép
15%);
kháng
rầy,
kháng
đạo
ôn,
bệnh
cháy
lá,
lúa
von…Riêng
giống
Một
bụi
đỏ
Hồng
Dân,
từ
tháng
2/2009
bắt
đầu
thực
hiện
đến
nay
có
được
kết
quả
bước
đầu
với
100kg
giống
chuyển
giao
về
huyện
Hồng
Dân
(Bạc
Liêu)
nhằm
đáp
ứng
cho
mô
hình
lúa-tôm,
không
sử
dụng
thuốc
trừ
sâu
để
sản
xuất
gạo
sạch.
Bên
cạnh
đó,
hiện
nay
Bộ
môn
Di
truyền
chọn
giống
giống
nông
nghiệp
–
Khoa
nông
nghiệp
&
Sinh
học
ứng
dụng,
trường
ĐH
Cần
Thơ
đã
có
kết
quả
trong
việc
chọn
tạo
giống
đậu
bắp
mới
với
ưu
thế
lai,
có
khả
năng
kháng
sâu
đục
trái,
sâu
đục
thân,
chịu
hạn,
phèn;
có
khả
năng
trồng
trên
vùng
đất
mặn
và
năng
suất
cao.
Đây
là
giống
ghướng
tới
sản
xuất
sạch,
không
dùng
thuốc
sâu
để
phát
triển
vùng
rau
màu
ở
vành
đai
các
đô
thị.
Trở
lại
với
đề
tài
nghiên
cứu
chọn
tạo
giống
lúa
chịu
mặn,
TS
Nghĩa
nhận
xét:
“Hướng
chọn
tạo
giống
lúa
có
khả
năng
chịu
mặn
và
ngập
chìm
tạm
thời.
Thực
tế
trong
sản
xuất
hiện
nay
ở
một
số
vùng
lúa
nhiễm
mặn,
ruộng
lúa
thường
bị
ngập
tạm
thời
trong
thời
gian
ngắn
(từ
7-18
ngày)
sau
khi
xuống
giống
đầu
vụ.
Hướng
đi
này
đang
được
một
số
cơ
quan
nghiên
cứu
như
Viện
lúa
quốc
tế
đã
thực
hiện,
Viện
Di
Truyền
và
Viện
lúa
đang
bắt
đầu
thực
hiện.
Giống
lúa
bố
mẹ
mang
tính
chịu
mặn
và
chịu
ngập
chìm
đã
được
xác
định,
phổ
biến
và
không
bị
rào
cản
về
bản
quyền
và
nguồn
giống.
Do
đó
hướng
chọn
tạo
giống
lúa
chịu
hạn.
Việc
chọn
tạo
giống
lúa
chịu
hạn
cho
vùng
ĐBSCL
sẽ
phải
khác
nhiều
như
khi
so
sánh
với
chọn
tạo
giống
lúa
chịu
hạn
cho
vùng
đồi
núi
bắc
bộ
(chịu
hạn
khắc
nghiệt,
rất
nhiều
ngày,
năng
suất
thấp
2-3
tấn/ha,
nguồn
nước
cung
cấp
cho
lúa
dựa
nhiều
vào
nước
mưa,
sương
ẩm
trong
đêm).
Mặt
khác,
do
BĐKH,
kết
hợp
với
việc
xuất
hiện
đê
ngăn
nước
thượng
nguồn
sông
Mê
Kông,
nước
trong
sông,
kênh
rạch
vùng
ĐBSCL
có
thể
bị
thiếu
tạm
thời
trong
thời
gian
ngắn.
Do
đó
chọn
giống
lúa
chịu
hạn
trong
thời
gian
ngắn
(khoảng
5-14
ngày),
đất
không
quá
khô
hạn
(chủ
yếu
là
ráo
nước
đến
hơi
khô)
mà
vẫn
cho
năng
suất
khá
cao
(từ
4-7
tấn/ha)
là
thích
ứng
nhất
với
điều
kiện
ĐBSCL.
Chọn
giống
lúa
theo
hướng
này
sẽ
đáp
ứng
tốt
với
kỹ
thuật
quản
lý
nước
tưới
tiêu
tiết
kiệm
của
Viện
lúa
quốc
tế
(tưới-
khô
ráo
xen
kẽ),
hợp
với
điều
kiện
nguồn
nước
của
ĐBSCL
mà
không
làm
giảm
sản
lượng
lúa
sản
xuất
vùng
ĐBSCL.
Nguồn
giống
chịu
hạn
cho
vùng
khô
hạn
khắc
nghiệt
sẽ
được
dùng
làm
bố
mẹ
lai
tạo.”
Đối
với
chọn
giống
lúa
chịu
nhiệt
độ
cao,
TS
Nghĩa
cho
rằng:
Nhiệt
độ
cao
trong
giai
đoạn
trổ
bông
sẽ
ảnh
hưởng
đến
năng
suất
lúa.
ở
nhiệt
độ
cao
hơn
35oC
trong
vài
giờ
sẽ
làm
bông
lúa
đang
trổ
bị
lép
rất
nhiều
sau
này.
Nhiệt
độ
cao
cũng
sẽ
làm
giảm
kích
thước
hạt
lúa
và
giảm
tỷ
lệ
xay
chà
gạo.
Một
vài
đặc
tính
liên
quan
đến
cấu
trúc
bông
lúa
(sau
này
thành
hạt)
cũng
như
đặc
tính
trổ
sớm
vào
buổi
sáng
của
một
số
lúa
hoang
có
thể
giúp
lúa
ít
bị
thiệt
hại
do
nhiệt
độ
cao.
Do
đó,
việc
đầu
tiên
của
hướng
chọn
giống
này
là
phải
đánh
giá
lại
các
ngân
hàng
gen
giống
lúa
(lúa
mùa
địa
phương,
lúa
hoang,
lúa
cao
sản)
cho
đặc
tính
chịu
nhiệt
độ
cao,
hoặc
tìm
nguồn
giống
lúa
chịu
nhiệt
độ
cao
sử
trong
các
chương
trình
lai
tạo.