Chuẩn bị giống lúa mới & cây trồng thích nghi

Chuẩn bị giống lúa mới & cây trồng thích nghi
Trước nhiều kịch bản giả định biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng, vùng ĐBSCL sẽ là một trong những nơi chịu nhiều nhiều ảnh hưởng nhất trên thế giới.

Ở nước ta đây là vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm, trong đó đất lúa tạo nguồn lương thực chủ yếu và chiếm hơn 90% sản lượng gạo xuất khẩu. Tuy nhiên, đứng trước nguy cơ các nhà khoa học trong vùng đã có những bước chuẩn bị cho tương lai và đã có những ghi nhận kết quả khả quan bước đầu. 

Tình cờ 

Mấy năm gần đây trước thời tiết diễn biến khô hạn, nóng bức rồi chuyển mùa mưa giông, bão tố dữ dội…nông dân ĐBSCL cảm nhận bằng mắt thường đã nhận diện thách thức không còn xa ở vùng vựa lúa của cả nước. Trong khi mùa lúa chính đông xuân (ĐX) thuận lợi thì mùa (hè thu) bắt đầu gặp hạn khô đầu vụ và tới mùa thu hoạch lại gặp mưa dầm. Nông dân cực nhọc hơn, chi phí sản xuất tăng nhưng năng suất kém hơn vụ ĐX. Ở những vùng đất lúa có thể tăng vòng quay hiện đã tăng vụ thu đông (TĐ), làm lúa mùa…để có thể gia tăng thu nhập cho nhà nông. Tuy nhiên, đứng trước tương lai thách thức, đất lúa ĐBSCL sẽ làm gì, cách chuyển đổi nào ứng phó có khả năng thích nghi ?

Theo các nhà khoa học nghiên cứu chọn tạo giống lúa ở Viện lúa ĐBSCL, trong về việc chọn tạo giống lúa chịu mặn, Viện đã thực hiện khá lâu, tuy nhiên lúc đó không thực sự đầu tư nghiên cứu nhiều vì một số lý do như sau: mặn chưa nhiều và nông dân có thể tìm giải pháp né mặn; Đất ruộng lúa thí nghiệm của Viện không bị nhiễm mặn, do đó phần lớn các thử nghiệm mặn là thực hiện trong dung dịch nước muối ở phòng thí nghiệm, không phải ngoài đồng ruộng bị ảnh hưởng khắc nghiệt của sức nóng chiếu sáng từ mặt trời, môi trường đất đai, phèn và độ mặn tăng lũy tiến sau mỗi lần cho nước lợ vào ruộng (nước bốc hơi, mặn thấm xuống đất). Do đó trong thời gian trước, các giống lúa có khả năng chống chịu mặn tương đối khá như OM1490, AS996, OM576 (Hầm Trâu), Tài nguyên đột biến, OM2395...đều được tuyển chọn và phóng thích vào sản xuất lúa từ những chương trình lai khác, khi trồng rộng trong sản xuất thì được nông dân phát hiện có khả năng chịu mặn, rồi được cán bộ khoa học kiểm tra lại trong phòng thí nghiệm.

TS Võ Công Thành, Trưởng Bộ môn di truyền giống nông nghiệp – Khoa nông nghiệp & Sinh học ứng dụng trường ĐH Cần Thơ nói: Từ năm 2000 một số nhà khoa học trường ĐH Cần Thơ đã có những công trình sưu tập và giữ lại những giống lúa cổ truyền. Trong đó ở vùng ven biền ĐBSCL từ Long An qua các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, và sau này là các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang. Hồi đó chúng tôi ngạc nhiên với giống lúa mùa có tên địa phương như: Nàng Qướt, Tiêu Chùm, Sỏi Đá…có khả năng chịu mặn tới 20%0, nhưng tiếc là năng suất rất thấp, chỉ chừng 2-3 tấn/ha. Vì thế có những nông dân vùng ven biển nghèo khó và trông đợi có giống lúa nào thay thế để bớt nghèo. Hồi đó các kỹ sư nông nghiệp cũng chưa ai nghĩ tới tìm giống chịu mặn như bây giờ.

Thế nhưng từ sự tình cờ, TS Thành cho biết đang chuẩn bị chương trình nghiên cứu, thanh lọc, thí nghiệm từ những giống lúa mùa làm chuẩn để lai tạo tìm giống mới. Trong giống lúa Nàng Qướt của Tiền Ging xưa kia có tính năng nổi trội là là thích nghi trên vùng đất sát mé biển, vùng ngập mặn thường xuyên. Hay giống lúa Sỏi Đá cứng cây, năng suất khá; nguồn giống Đốc Phụng, Đốc Đỏ ở Long An…

Tín hiệu mới

TS Phạm Trung Nghĩa, Trưởng Bộ môn Công nghệ sinh học - Viện lúa ĐBSCL cho rằng, từ năm 2009-2013 cả 2 vùng lúa phía Bắc và trong Nam đã bắt đầu thực hiện đề tài chọn tạo giống lúa chịu mặn của bộ NN & PTNT. Ở phía Nam, Viện lúa ĐBSCL thực hiện chọn tạo bộ giống chịu mặn với kinh phí 3 tỷ trong 5 năm. Do thời gian từ lai tạo - tuyển chọn, cho đến khi có được một số dòng lúa mới, thuần (không còn phân ly về hình thái, đặc tính nông học,..) cần ít nhất là 6-7 vụ lúa. Sau đó cần khoảng 2-4 vụ lúa cho việc đánh giá về năng suất, khảo nghiệm đặc tính của giống. Do đó thời gian cho chọn tạo giống là tương đối dài, cho nên mỗi chương trình, đề tài chọn giống đều có phần kế thừa nguồn dòng/giống lúa từ đề tài chọn tạo giống lúa khác (cùng hay khác mục đích lai tạo) đã thực hiện trước đó.

Từ năm 2009 đến nay Viện đã bước đầu tìm 30 dòng lúa có triển vọng chịu mặn là những dòng lúa kế thừa, được phát hiện chịu mặn qua nhiều lần thanh lọc trong phòng thí nghiệm và bể nhà lưới. Đánh giá về những dòng lúa triển vọng này có khả năng chịu mặn tốt trong sản xuất lúa vùng ĐBSCL hay không còn đang được phối hợp khảo nghiệm, đánh giá ở một số trung tâm giống của các tỉnh như SócTrăng, Kiên Giang, Bến Tre, Bạc Liêu...Từ đây, để chọn chính xác ra một giống lúa chịu mặn cũng cần ít nhất 2 vụ lúa thử nghiệm tại vùng lúa bị nhiễm mặn. Tới khi biết chính xác khả năng chịu mặn và năng suất của giống lúa mới, Viện lúa sẽ phải đăng ký cho giống lúa mới này được khảo nghiệm quốc gia và trong thời gian ít nhất là 2-3 vụ lúa liên tiếp trước khi được phép cho đăng ký công nhận giống. Do đó từ thời gian tìm ra những giống lúa mới được xác định đến triển khai nhân rộng trên đồng ruộng mất khoảng 1-2 năm.

TS Nghĩa cho biết thêm, trong nghiên cứu ngoài việc chọn tạo giống lúa chịu mặn, chúng tôi cũng đang rất quan tâm đến các biện pháp kỹ thuật liên quan đến canh tác lúa như sử dụng phân bón giàu khoáng vi lượng-vitamin, chế phẩm sinh học, hóa chất cải tạo đất, kỹ thuật tưới tiêu, cải tạo đất,... sao cho giúp cây lúa chịu đựng tốt hơn trong điều kiện bị nhiễm mặn. Kết hợp được giống lúa chịu mặn với biện pháp kỹ thuật sẽ giúp tăng tính chịu mặn của cây lúa lên cao hơn, sản xuất lúa trong mùa vụ nhiễm mặn sẽ an toàn, hiệu quả và năng suất sẽ cao hơn. Ngoài tính chịu mặn ra, giống lúa mới cần phải có năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn, kháng sâu bệnh, thích nghi với điều kiện tự nhiên thì mới được bà con nông dân ưa thích, gieo trồng trong sản xuất. 

Hiện nay, một số giống lúa mới của Viện lúa ĐBSCL xác định có khả năng kháng mặn ở mức từ 0,3-0,4%0 như OM6976, OM6677, OM5464, OM5629, OM5166,... đã và đang được khảo nghiệm ở một số tỉnh: Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Bến Tre. Kết quả khảo nghiệm ban đầu ghi nhận khá khả quan, trong đó giống lúa OM5464 đang được đề nghị nhân rộng và trình Bộ NN&PTNT công nhận là giống lúa sản xuất thử trong năm 2010. Hai giống OM6976 và OM5166 đang được tiếp tục khảo nghiệm, xác định biện pháp kỹ thuật thích hợp để tăng tính chịu mặn và năng suất của giống. Hai giống lúa mới này đang dự kiến xin công nhận trong năm 2011.

Hy vọng phía trước

Đi tìm giống lúa thích nghi trong điều kiện sản xuất mới, TS Võ Công Thành xác nhận: Trong 2 năm qua 2008-2009, giống lúa BN được chọn tạo từ giống lúa IR 50404 đột biến cho thấy khả năng thích nghi trên vùng đất phèn, chịu hạn ở Đồng Tháp, Trà Vinh và ở Hậu Giang có gần 400-500ha. Giống BN chất lượng gạo mềm cơm, hàm lượng amylose trên 22%, bạc dụng 5% (ngưỡng cho phép 15%); kháng rầy, kháng đạo ôn, bệnh cháy lá, lúa von…Riêng giống Một bụi đỏ Hồng Dân, từ tháng 2/2009 bắt đầu thực hiện đến nay có được kết quả bước đầu với 100kg giống chuyển giao về huyện Hồng Dân (Bạc Liêu) nhằm đáp ứng cho mô hình lúa-tôm, không sử dụng thuốc trừ sâu để sản xuất gạo sạch. Bên cạnh đó, hiện nay Bộ môn Di truyền chọn giống giống nông nghiệp – Khoa nông nghiệp & Sinh học ứng dụng, trường ĐH Cần Thơ đã có kết quả trong việc chọn tạo giống đậu bắp mới với ưu thế lai, có khả năng kháng sâu đục trái, sâu đục thân, chịu hạn, phèn; có khả năng trồng trên vùng đất mặn và năng suất cao. Đây là giống ghướng tới sản xuất sạch, không dùng thuốc sâu để phát triển vùng rau màu ở vành đai các đô thị.

Trở lại với đề tài nghiên cứu chọn tạo giống lúa chịu mặn, TS Nghĩa nhận xét: “Hướng chọn tạo giống lúa có khả năng chịu mặn và ngập chìm tạm thời. Thực tế trong sản xuất hiện nay ở một số vùng lúa nhiễm mặn, ruộng lúa thường bị ngập tạm thời trong thời gian ngắn (từ 7-18 ngày) sau khi xuống giống đầu vụ. Hướng đi này đang được một số cơ quan nghiên cứu như Viện lúa quốc tế đã thực hiện, Viện Di Truyền và Viện lúa đang bắt đầu thực hiện. 

Giống lúa bố mẹ mang tính chịu mặn và chịu ngập chìm đã được xác định, phổ biến và không bị rào cản về bản quyền và nguồn giống. Do đó hướng chọn tạo giống lúa chịu hạn. Việc chọn tạo giống lúa chịu hạn cho vùng ĐBSCL sẽ phải khác nhiều như khi so sánh với chọn tạo giống lúa chịu hạn cho vùng đồi núi bắc bộ (chịu hạn khắc nghiệt, rất nhiều ngày, năng suất thấp 2-3 tấn/ha, nguồn nước cung cấp cho lúa dựa nhiều vào nước mưa, sương ẩm trong đêm). Mặt khác, do BĐKH, kết hợp với việc xuất hiện đê ngăn nước thượng nguồn sông Mê Kông, nước trong sông, kênh rạch vùng ĐBSCL có thể bị thiếu tạm thời trong thời gian ngắn. Do đó chọn giống lúa chịu hạn trong thời gian ngắn (khoảng 5-14 ngày), đất không quá khô hạn (chủ yếu là ráo nước đến hơi khô) mà vẫn cho năng suất khá cao (từ 4-7 tấn/ha) là thích ứng nhất với điều kiện ĐBSCL. Chọn giống lúa theo hướng này sẽ đáp ứng tốt với kỹ thuật quản lý nước tưới tiêu tiết kiệm của Viện lúa quốc tế (tưới- khô ráo xen kẽ), hợp với điều kiện nguồn nước của ĐBSCL mà không làm giảm sản lượng lúa sản xuất vùng ĐBSCL. Nguồn giống chịu hạn cho vùng khô hạn khắc nghiệt sẽ được dùng làm bố mẹ lai tạo.”

Đối với chọn giống lúa chịu nhiệt độ cao, TS Nghĩa cho rằng: Nhiệt độ cao trong giai đoạn trổ bông sẽ ảnh hưởng đến năng suất lúa. ở nhiệt độ cao hơn 35oC trong vài giờ sẽ làm bông lúa đang trổ bị lép rất nhiều sau này. Nhiệt độ cao cũng sẽ làm giảm kích thước hạt lúa và giảm tỷ lệ xay chà gạo. Một vài đặc tính liên quan đến cấu trúc bông lúa (sau này thành hạt) cũng như đặc tính trổ sớm vào buổi sáng của một số lúa hoang có thể giúp lúa ít bị thiệt hại do nhiệt độ cao. Do đó, việc đầu tiên của hướng chọn giống này là phải đánh giá lại các ngân hàng gen giống lúa (lúa mùa địa phương, lúa hoang, lúa cao sản) cho đặc tính chịu nhiệt độ cao, hoặc tìm nguồn giống lúa chịu nhiệt độ cao sử trong các chương trình lai tạo.

Nguồn tin: nguoinhaque.com