Cuốn
sách
này
sẽ
“thay
đổi
cả
cách
chúng
ta
suy
nghĩ
về
xã
hội
và
cách
chúng
ta
nghiên
cứu
kinh
tế
học”.
“Tôi
tin
vào
sở
hữu
tư
nhân.
Nhưng
chủ
nghĩa
tư
bản
và
thị
trường
phải
là
nô
lệ
cho
nền
dân
chủ
chứ
không
phải
ngược
lại”.
Thomas
Piketty
|
Nếu
trong
giới
kinh
tế
học
mà
cũng
có
ngôi
sao
như
trong
giới
điện
ảnh,
ca
hát
thì
Thomas
Piketty
ắt
sẽ
là
ngôi
sao
mới
nổi,
đang
được
đón
chào
chẳng
kém
diễn
viên
Brad
Pitt.
Cuốn
sách
vừa
xuất
bản
bằng
tiếng
Anh
của
ông,
“Capital
in
the
Twenty-First
Century
-
Tư
bản
trong
thế
kỷ
21”
tuần
trước
lọt
vào
danh
sách
sách
bán
chạy
nhất
của
tờ
New
York
Times.
Nhà
kinh
tế
học
đoạt
giải
Nobel
Paul
Krugman
cho
rằng
cuốn
sách
của
Piketty
sẽ
“thay
đổi
cả
cách
chúng
ta
suy
nghĩ
về
xã
hội
và
cách
chúng
ta
nghiên
cứu
kinh
tế
học”.
Chủ
đề
cuốn
sách
đang
gây
xôn
xao
dư
luận
này
là
bất
bình
đẳng
trong
thu
nhập,
một
chủ
đề
quen
thuộc,
từng
được
đề
cập
trong
hàng
ngàn
cuốn
sách
hay
hàng
ngàn
bài
viết
trước
đây.
Thế
nhưng
vì
sao
sách
của
Thomas
Piketty
lại
trở
thành
hiện
tượng?
Trước
tiên
phải
nói
ngay
sự
bất
bình
đẳng
trong
thu
nhập
mà
tác
giả
đề
cập
chủ
yếu
không
xoay
quanh
chuyện
lương
các
CEO
cao
gấp
mấy
trăm
lần
lương
công
nhân
(có
nhưng
không
phải
là
điểm
chính).
Sự
bất
bình
đẳng
này
thể
hiện
giữa
hai
xu
hướng:
thu
nhập
từ
tư
bản,
có
tốc
độ
tăng
cao
hơn
nhiều
so
với
thu
nhập
từ
sức
lao
động,
thường
thấp
hơn
tốc
độ
tăng
trưởng
của
nền
kinh
tế.
Lương
của
Bill
Gates
nay
có
thể
không
là
bao
nhiêu
cả
khi
không
còn
làm
cho
Microsoft
nhưng
so
với
năm
ngoái,
tài
sản
của
ông
năm
nay
đã
tăng
thêm
9
tỉ
đô
la,
lên
76
tỉ
đô
la
Mỹ.
Mức
tăng
ấy
đến
từ
lợi
tức
tư
bản
mà
dân
gian
chúng
ta
thường
nói
“tiền
đẻ
ra
tiền”.
Tốc
độ
tăng
này
cao
hơn
nhiều
so
với
tốc
độ
tăng
GDP
của
nước
Mỹ
-
điều
đó
có
nghĩa,
dù
không
muốn
nhưng
Bill
Gates
sẽ
tiếp
tục
ngày
càng
giàu,
trong
khi
đại
đa
số
dân
Mỹ
thấy
thu
nhập
hầu
như
không
tăng.
Vì
vậy
khoảng
cách
giàu
nghèo
giữa
Bill
Gates
và
những
người
có
thu
nhập
từ
tư
bản
như
ông
và
những
người
làm
công
ăn
lương
sẽ
ngày
càng
giãn
ra,
giãn
dần
ra
đến
một
tỷ
lệ
không
tưởng
nổi.
Đó
chính
là
lập
luận
chính
của
cuốn
sách
“Tư
bản
trong
thế
kỷ
21”.
Tư
bản,
theo
định
nghĩa
của
Piketty
gồm
tất
cả
những
tài
sản
mà
người
ta
có
thể
sở
hữu
và
mua
bán
trên
thị
trường,
như
bất
động
sản,
vốn
trong
doanh
nghiệp,
máy
móc,
nhà
xưởng,
kể
cả
tài
sản
sở
hữu
trí
tuệ.
Tư
bản
tạo
ra
thu
nhập
và
theo
Piketty,
hiện
nay
ở
các
nước
phát
triển,
thu
nhập
từ
tư
bản
vào
khoảng
4-5%/năm.
Trong
khi
đó,
tốc
độ
tăng
trưởng
thu
nhập
quốc
dân
của
các
nước
này
chỉ
vào
khoảng
1-2%/năm.
Điều
gì
sẽ
xảy
ra
nếu
hai
tốc
độ
chênh
lệch
nhau
này
cứ
thế
tiếp
diễn
trong
suốt
thế
kỷ
21
này?
Chắc
chắn
sẽ
đến
lúc
những
người
nắm
tư
bản
trong
tay
sẽ
chiếm
gần
hết
thu
nhập
của
một
nước
trong
khi
những
người
còn
lại,
tức
chỉ
biết
dùng
sức
lao
động
để
tạo
ra
thu
nhập,
sẽ
phải
chia
miếng
bánh
ngày
càng
nhỏ
đi.
Cuối
cùng
thế
giới
sẽ
quay
trở
lại
hình
ảnh
của
châu
Âu
vào
thế
kỷ
19
khi
giới
thượng
lưu
không
làm
gì
cả,
chỉ
biết
hưởng
lợi
tức
trên
điền
trang
như
trong
các
cuốn
tiểu
thuyết
cổ
điển
và
giới
lao
động
bình
dân
luôn
sống
trong
chật
vật
nghèo
khó.
Lập
luận
này
đi
ngược
lại
những
gì
kinh
tế
học
lâu
nay
thường
giả
định,
rằng
kinh
tế
thị
trường
sẽ
làm
cho
bất
bình
đẳng
trong
thu
nhập
ngày
càng
nhỏ
lại
nhưng
Piketty
thuyết
phục
được
nhiều
người
nhờ
khối
lượng
dữ
liệu
khổng
lồ
trải
dài
suốt
mấy
trăm
năm
mà
ông
từng
thu
thập,
phân
tích
để
viết
cuốn
sách.
Ví
dụ
ông
cho
rằng
giai
đoạn
nửa
đầu
thế
kỷ
20,
sự
bất
bình
đẳng
không
rõ
nét
lắm
là
bởi
tư
bản
hay
sản
nghiệp
của
nhiều
người
đã
bị
hủy
diệt
qua
hai
cuộc
đại
thế
chiến,
qua
những
cơn
khủng
hoảng
và
chỉ
mới
tích
lũy
lên
lại
mức
xưa
vào
nửa
cuối
thế
kỷ
20.
Điều
gây
ấn
tượng
trong
lập
luận
của
tác
giả
là:
nền
kinh
tế
càng
rơi
vào
trì
trệ,
tốc
độ
tăng
trưởng
kinh
tế
càng
giảm
thì
sự
bất
bình
đẳng
trong
thu
nhập
càng
cao
(vì
chênh
lệch
giữa
thu
nhập
từ
tư
bản
và
thu
nhập
từ
lao
động
càng
cách
biệt).
Thomas
Piketty
năm
nay
mới
42
tuổi,
sinh
trưởng
ở
Pháp.
Năm
22
tuổi
ông
đã
lấy
xong
bằng
tiến
sĩ
kinh
tế
và
được
ba
trường
danh
tiếng
của
Mỹ
gồm
MIT,
Harvard
và
Đại
học
Chicago
mời
sang
dạy.
Ông
chọn
MIT
nhưng
chỉ
dạy
ở
đây
hai
năm
rồi
quay
về
Pháp
và
bỏ
hết
thời
gian
để
nghiên
cứu
dữ
liệu
liên
quan
đến
bất
bình
đẳng
trong
thu
nhập
của
hàng
chục
nước
trên
thế
giới.
Đương
nhiên
khi
vẽ
nên
bức
tranh
của
kinh
tế
thế
giới
đang
đi
vào
chỗ
bế
tắc
như
thế,
tác
giả
đưa
ra
những
đề
nghị
táo
bạo:
đánh
thuế
lên
tư
bản
để
giảm
bất
bình
đẳng.
Đây
là
điểm
yếu
của
cuốn
sách
vì
đa
phần
đều
cho
là
tác
giả
“ngây
thơ
về
chính
trị”
-
không
ai
dại
gì
đánh
thuế
lên
tư
bản
vì
nó
sẽ
chạy
sang
nước
khác;
một
sắc
thuế
toàn
cầu
lại
càng
bất
khả
thi
hơn.
Hiện
nay
đa
phần
lời
bình
khi
điểm
cuốn
này
là
sự
khen
ngợi.
Tuy
nhiên,
phải
nói
ngay
cuốn
sách
được
viết
theo
dạng
nhắm
đến
độc
giả
không
chuyên
về
kinh
tế
nên
khá
dài
dòng,
lặp
đi
lặp
lại
một
cách
không
cần
thiết.
Bức
tranh
toàn
cảnh
mà
tác
giả
đưa
ra
trải
dài
qua
nhiều
thế
kỷ,
qua
nhiều
nước
nên
giúp
độc
giả
có
được
cái
nhìn
rất
toàn
diện,
tỉnh
táo,
không
bị
tác
động
bởi
các
yếu
tố
chính
trị,
chiến
tranh
hay
xung
đột
“nóng
lạnh”.
Nhưng
cũng
chính
vì
phải
phân
tích
những
chuỗi
dữ
liệu
lớn
như
thế
nên
sách
đôi
lúc
mang
tính
kỹ
thuật,
khá
khô
khan.
Tác
giả
đã
cố
gắng
cân
bằng
trở
lại
bằng
cách
dùng
các
cuốn
tiểu
thuyết
nổi
tiếng
của
Jane
Austen,
Balzac
hay
Henry
James
làm
dữ
liệu
sống
để
minh
họa
cho
số
liệu
thời
đó.
Điều
chắc
chắn
là
cuốn
sách
của
Thomas
Piketty
sẽ
còn
được
bàn
tán
nhiều
trong
năm
nay;
các
nhà
làm
chính
sách
ắt
sẽ
đọc
kỹ
và
rất
có
thể
những
phân
tích
trong
cuốn
sách
sẽ
tác
động
đến
một
số
chính
sách
trong
tương
lai.
Biết
đâu
một
số
nước
phương
Tây
sẽ
nới
lỏng
thêm
chuyện
nhập
cư
vì
Piketty
cho
rằng
gia
tăng
dân
số
cũng
là
một
trong
những
phương
cách
giảm
bất
bình
đẳng
trong
thu
nhập.
Trong
cuốn
Tư
bản
trong
thế
kỷ
21,
Thomas
Piketty
đưa
ra
hai
“quy
luật
cơ
bản
của
chủ
nghĩa
tư
bản”.
Thứ
nhất,
ở
các
nước
phát
triển
tổng
giá
trị
tư
bản
của
nền
kinh
tế
so
với
tổng
thu
nhập
quốc
dân
hàng
năm
thường
ở
mức
5-6
lần.
Ví
dụ
ở
các
nước
như
Pháp,
Anh,
Đức,
Ý,
Mỹ,
Nhật
Bản,
thu
nhập
quốc
dân
đầu
người
chừng
30.000-35.000
euro/năm,
còn
tổng
sản
nghiệp
đầu
người
(tức
tư
bản)
chừng
150.000-200.000
euro.
Từ
đó,
Piketty
đưa
ra
quy
luật
đầu
tiên,
nếu
tổng
tư
bản
bằng
sáu
năm
tổng
thu
nhập
quốc
dân
và
nếu
tỷ
lệ
thu
nhập
từ
tư
bản
là
5%
thì
phần
chia
cho
tư
bản
từ
thu
nhập
quốc
dân
là
30%.
Quy
luật
thứ
hai,
chỉ
đúng
trong
dài
hạn,
cho
rằng
tỷ
lệ
tiết
kiệm
càng
cao
và
tốc
độ
tăng
trưởng
càng
thấp
thì
tỷ
lệ
tư
bản
trên
thu
nhập
quốc
dân
càng
cao.
Nói
cách
khác
giả
thử
một
nước
tiết
kiệm
8%
thu
nhập
và
GDP
hàng
năm
tăng
2%
thì
về
lâu
về
dài
nước
này
sẽ
tích
lũy
một
khoản
tư
bản
bằng
bốn
năm
tổng
thu
nhập
quốc
dân
hàng
năm.
Nhưng
nếu
GDP
chỉ
tăng
1%/năm
thì
sau
một
thời
gian,
tỷ
lệ
tư
bản
trên
thu
nhập
quốc
dân
này
sẽ
là
8
lần
chứ
không
còn
là
4
lần
nữa.
Theo
Nguyễn
Vạn
Phú
Thời
báo
Kinh
tế
Sài
Gòn