Theo
ông
Phúc,
khi
đầu
tư
mạo
hiểm
vào
các
công
ty
internet,
tỷ
lệ
thành
công
có
thể
chỉ
là
1/20,
tức
20
khoản
đầu
tư
mới
có
1
khoản
thành
công
sinh
lời
bù
đắp
cho
các
khoản
còn
lại.
Từ
vị
trí
CEO
Intel
chuyển
sang
làm
CEO
của
quỹ
đầu
tư
chắc
hẳn
có
nhiều
khác
biệt.
Anh
có
thể
chia
sẻ
những
khác
biệt
đó
hay
không?
Khi
chuyển
từ
vị
trí
CEO
của
Intel
sang
CEO
của
quỹ
(
ông
Thân
Trọng
Phúc
hiện
là
giám
đốc
điều
hành
quỹ
đầu
tư
mạo
hiểm
DFJV
Capital
thuộc
VinaCapial
-
PV) cũng
đều
là
vị
trí
người
điều
hành
tuy
nhiên
có
điểm
khác
biệt
lớn.
Đó
là
tại
intel
tôi
có
thể
thực
hiện
các
quyết
định
của
mình
nhanh
chóng.
Ví
dụ
trong
kinh
doanh
muốn
thay
đổi
chiến
lược
marketing,
tiếp
thị,
chọn
đối
tác
đều
làm
được
liền.
Với
các
nhà
đầu
tư
thì
khó
hơn
chút.
Mình
chỉ
đầu
tư
vào
họ,
sở
hữu
cổ
phần
ít
hơn
họ
nên
ở
đây
là
vai
trò
tư
vấn.
Vì
thế
việc
thiết
lập
mối
quan
hệ
mật
thiết
giữa
mình
với
lãnh
đạo
công
ty
là
rất
quan
trọng.
Các
lãnh
đạo
doanh
nghiệp
mình
đầu
tư
vào
phải
tin,
hiểu,và
thấy
được
tầm
nhìn
của
mình
thì
họ
mới
nghe
để
thực
hiện
theo
ý
kiến
của
mình.
Đôi
khi
thấy
công
ty
đi
sai
hướng,
muốn
chuyển
hướng
thì
phải
họp
hội
đồng
quản
trị,
bỏ
phiếu.
Điều
này
mất
khá
nhiều
thời
gian.
Đã
có
trường
hợp
nào
quỹ
đầu
tư
của
anh
muốn
rút
ra
do
công
ty
đi
sai
hướng,
mất
nhiều
thời
gian
để
thuyết
phục
ban
lãnh
đạo
chuyển
hướng
hay
chưa?
Chưa
có
trường
hợp
nào
như
thế.
Chúng
tôi
và
lãnh
đạo
công
ty
ngồi
với
nhau,
bàn
bạc
với
lãnh
đạo
công
ty
chuyển
hướng
đi
để
công
ty
phát
triển
hơn.
Thường
là
sau
đó
công
ty
chuyển
hướng
đi
chứ
chúng
tôi
đã
đầu
tư
vào
rồi
thì
không
rút
vốn
trước
hạn.
Phải
tìm
cách
để
thuyết
phục
họ
bằng
được.
Khi
ra
nhập
Intel
anh
còn
rất
trẻ,
nhiều
sức
lực
để
thực
hiện
kế
hoạch
dự
định.
Sang
làm
CEO
ở
quỹ
DFJV
khi
đã
nhiều
tuổi,
liệu
anh
có
thấy
mình
liều
lĩnh?
(Cười)
Đầu
tư
mạo
hiểm
tức
là
liều
lĩnh
rồi.
Tuy
nhiên
tôi
thấy
mình
có
may
mắn
là
dù
làm
ở
đâu,
10
năm
tại
Intel
và
2
năm
tại
quỹ
đều
được
làm
vì
đam
mê.
Khi
còn
ở
Intel
là
đam
mê
công
nghệ,
muốn
đem
công
nghệ
quảng
bá
ở
Việt
Nam,
làm
cái
gì
đó
giúp
việt
nam
nâng
cao
trình
độ
công
nghệ.
Đem
nhà
máy
Intel
về
Việt
Nam
cũng
vì
đam
mê
đó.
Tôi
không
có
trách
nhiệm
đó.
Trách
nhiệm
của
tôi
là
phát
triển
thị
trường,
bán
sản
phẩm
intel
ở
VN.
Dù
có
đem
nhà
máy
về
Việt
Nam
hay
không
thì
lương
thưởng
của
tôi
vẫn
như
vậy.
Sang
quỹ
có
đam
mê
khác.
Đam
mê
là
muốn
đem
bài
học
kinh
nghiệm
nhiều
năm
làm
việc
ở
Intel
giúp
phát
triển
nhiều
mảng
công
nghệ
khác
ngoài
công
nghệ
thông
tin.
Tiếp
đến
là
xây
dựng
môi
trường
đầu
tư
mạo
hiểm
về
công
nghệ
ở
Việt
Nam.
Để
các
bạn
trẻ
sau
này
ra
khởi
nghiệp
có
ý
tưởng
hay
sẽ
được
hỗ
trợ
để
thực
hiện.
Đam
mê
mới
này
của
anh
có
lẽ
có
nhiều
thử
thách?
Đúng
vậy.
Có
3
thử
thách
đối
với
đam
mê
này
của
tôi.
Đó
là
chính
sách
hỗ
trợ
của
Nhà
nước,
chất
lượng
nguồn
nhân
lực
và
vốn.
Với
vốn
thì
hiện
tại
tạm
thời
có
giải
quyết
được
thông
qua
việc
huy
động
vốn
từ
các
nhà
đầu
tư.
Tuy
nhiên
với
chính
sách
của
Nhà
nước
và
chất
lượng
nguồn
nhân
lực
thì
nhiều
vấn
đề.
Chính
sách
hỗ
trợ
từ
Chính
phủ
hiện
nay
là
chưa
có.
Lấy
ví
dụ
tại
Trung
Quốc
chính
phủ
còn
có
quỹ
riêng
để
hỗ
trợ
công
ty
phát
triển
công
nghệ.
Họ
sẵn
sàng
sang
các
quốc
gia
phát
triển
như
Mỹ,
châu
Âu
lôi
kéo
người
tài,
có
khả
năng
sáng
tạo,
cho
nhiều
ưu
đãi
để
lôi
kéo
họ
về
Trung
Quốc
lập
nghiệp.
Khi
lập
nghiệp
tại
Trung
Quốc
thì
sẽ
phải
thuê
người
Trung
Quốc
và
như
thế
người
Trung
Quốc
sẽ
học
được
cách
làm,
cách
suy
nghĩ
của
người
giỏi.
Chính
phủ
Isarel,
Singapore
cũng
có
chính
sách
tương
tự
như
vây.
Đối
với
nguồn
nhân
lực
thì
cần
đổi
mới
rất
nhiều.
Người
Việt
Nam
thông
minh
nhưng
vẫn
chưa
đủ
sáng
tạo,
còn
có
khoảng
cách
xa
giữa
lý
thuyết
và
thực
tế.
Đây
là
câu
chuyện
của
giáo
dục.
Giáo
dục
VN
là
giáo
dục
1
chiều
khiến
học
trò
mất
đi
sáng
tạo.
Chúng
ta
cần
có
đại
học
tầm
cỡ
quốc
tế
mới
có
thể
có
nhân
lực
đáp
ứng
được
nhu
cầu
tạo
ra
sản
phẩm
sáng
tạo.
Với
kinh
nghiệm
quản
lý
nhiều
năm
tại
Intel,
khi
sang
quỹ
anh
có
áp
dụng
được
nhiều
kinh
nghiệm
hay
không?
Đương
nhiên
là
tôi
có
áp
dụng
kinh
nghiệm
của
mình
tại
Intel
vào
việc
quản
lý
quỹ
của
mình,
tuy
nhiên
cũng
gặp
phải
nhiều
khó
khăn.
Ở
Intel
có
một
bí
quyết
thành
công
là
dữ
liệu
khách
hàng.
Dữ
liệu
này
cho
ta
biết
khách
hàng
đó
là
ai?
Có
thói
quen
gì?
Từ
đó
xây
dựng
các
chiến
lược
phù
hợp
với
khách
hàng,
thậm
chí
là
tương
tác
1-1.
Xây
dựng
chỉ
tiêu
KPI
(Key
Performance
Indicator)
đối
với
khách
hàng.
Chính
điều
này
tạo
nên
mối
quan
hệ
mật
thiết
giữa
doanh
nghiệp
và
khách
hàng.
Các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
chưa
quan
tâm
đến,
một
số
doanh
nghiệp
có
nhưng
không
sâu
và
cụ
thể.
Vì
thế
không
thể
phân
tích
dữ
liệu
về
khách
hàng
để
xây
dựng
chiến
lược
sản
phẩm.
Nói
cách
khác
là
các
doanh
nghiệp
của
chúng
ta
vẫn
còn
làm
việc
theo
cảm
hứng
với
suy
nghĩ
là
sản
phẩm
của
mình
tốt,
có
giá
trị
cho
khách
hàng.
Tuy
nhiên
không
có
đánh
giá
cụ
thể
tốt
như
thế
nào.
Đối
với
các
doanh
nghiệp
quỹ
của
anh
đầu
tư
vào,
anh
có
bắt
họ
phải
thu
thập
dữ
liệu
không?
Có
chứ.
Thâm
chí
có
công
ty
tôi
phải
bắt
buộc
họ
thu
thập
dữ
liệu
và
họ
đã
bắt
đầu
đi
tìm
kiếm,
lưu
trữ
thông
tin
khách
hàng.
Năm
2012,
anh
có
nói
là
sẽ
bận
rộn
với
công
việc
huy
động
vốn.
Nhìn
vào
bức
tranh
kinh
tế
toàn
cầu
thì
khá
u
ám.
Anh
có
đánh
giá
gì
về
khả
năng
huy
động
vốn
năm
tới?
Năm
2012
việc
huy
động
vốn
là
khó.
Có
nhiều
thử
thách
tuy
nhiên
mình
không
thể
ngồi
yên
để
nói
là
thử
thách
khó
quá
nên
không
đi
ra
huy
động
vốn.
Mình
phải
đi
ra
gặp
nhà
đầu
tư,
mới
biết
phản
hồi
từ
nhà
đầu
tư.
Giai
đoạn
đầu
tiên
là
xây
dựng
chiến
lược
để
ra
tiếp
cận
nhà
đầu
tư,
nghe
sự
phản
hồi
của
NĐT
và
sau
đó
mình
thay
đổi
chiến
lược
của
mình.
Tuy
nhiên
năm
nay
tôi
sẽ
tiếp
cận
những
nhà
đầu
tư
đã
góp
vốn
cho
quỹ
trước,
Bởi
vì
những
người
đó
đã
biết
đến
mình,
hiểu
mình
làm
gì
và
họ
sẽ
có
nhiều
thông
tin
nhất.
Sau
đó
những
nhà
đầu
tư
hiện
tại
cảm
thấy
thích
với
chiến
lược
đầu
tư
của
mình
thì
họ
có
thể
giới
thiệu
cho
các
nhà
đầu
tư
khác
Hiện
quỹ
đang
đầu
tư
vào
lĩnh
vực
công
nghệ
phục
vụ
cho
thị
trường
VN,
và
quốc
tế.
Hiện
đầu
tư
vào
Internet,
media,
sản
phẩm
giá
trị
gia
tăng.
Chúng
tôi
có
khoản
đầu
tư
vào
1
công
ty
sản
xuất
chip
do
tôi
có
kinh
nghiệm
trong
lĩnh
vực
này.
Đây
là
công
ty
nước
ngoài
nhưng
có
cơ
sở
ở
Việt
Nam.
Và
các
công
ty
xuất
khẩu
đồ
gia
dụng
bán
ra
thị
trường
nước
ngoài
thông
qua
Internet.
Quỹ
thứ
II
hy
vọng
sẽ
có
3
phần
vốn
đầu
tư:
1
phần
tiếp
tục
vào
các
lĩnh
vực
đang
đầu
tư,
1
phần
vào
lĩnh
vực
phần
mềm
theo
chủ
trương
của
nhà
nước,
1
phần
vào
công
nghiệp
phụ
trợ.
Công
nghiệp
phụ
trợ
đang
là
vấn
đề
của
Việt
Nam.
Nhiều
nhà
đầu
tư
Mỹ,
châu
Âu
muốn
đầu
tư
vào
Việt
Nam
nhưng
cảm
thấy
khó
vì
VN
không
có
công
nghiệp
phụ
trợ.
Nếu
Việt
Nam
giải
quyết
được
vấn
đề
này
thì
sẽ
có
nhiều
nhà
đầu
tư
sẵn
sàng
đầu
tư
vào
Việt
Nam.
Đây
là
con
đường
dài
nhưng
rất
tiềm
năng.
Quá
trình
tìm
kiếm
doanh
nghiệp
để
bỏ
vốn
vào
anh
nói
là
rất
khó.
Anh
có
thể
chia
sẻ
những
khó
khăn
trong
lựa
chọn
doanh
nghiệp
không?
Khi
muốn
đầu
tư
thì
quỹ
đương
nhiên
sẽ
phải
tìm
tới
các
doanh
nghiệp
tâm
đầu
ý
hợp.
Ở
đây
hiểu
tâm
đầu
ý
hợp
tức
là
chủ
doanh
nghiệp
có
mục
tiêu
thoái
vốn.
Nếu
chủ
doanh
nghiệp
chỉ
muốn
mình
sở
hữu
toàn
bộ
doanh
nghiệp
thì
khó
có
thể
hợp
tác.
Nhiều
chủ
DN
khi
quỹ
đến
đầu
tư
thì
họ
nói
rằng
sẽ
rút
bớt
vốn
sau
3-4
năm.
Tuy
nhiên
sau
khi
được
quỹ
rót
vốn
đầu
tư,
công
ty
hoạt
động
tốt,
họ
lại
không
muốn
rút
lui,
muốn
tiếp
tục
kinh
doanh
bình
bình
là
đủ
cảm
thấy
lời
đủ
rồi,
không
muốn
phát
triển
thêm.
Một
khó
khăn
khác
nữa
là
nhiều
DN
vừa
và
nhỏ
của
chúng
ta
thường
dùng
tiền
lời
từ
kinh
doanh
thay
vì
đầu
tư
vào
doanh
nghiệp
lại
tìm
cách
đầu
tư
cho
cá
nhân
ví
dụ
như
lấy
tiền
công
ty
đi
mua
nhà
cửa,
xe
cộ
cho
bản
thân.
Doanh
nghiệp
là
của
họ
thì
việc
họ
làm
thế
cũng
không
trách
được,
tuy
nhiên
khó
khăn
của
quỹ
là
nếu
có
quá
nhiều
doanh
nghiệp
như
vậy
khó
thể
tìm
được
DN
để
đầu
tư.
Như
vậy
sẽ
không
tốt
đối
với
môi
trường
đầu
tư
chung.
Đó
là
các
doanh
nghiệp
cũng
đã
có
thời
gian
hoạt
động,
còn
những
doanh
nghiệp
khởi
sự
chỉ
có
ý
tưởng
thì
quỹ
có
tiêu
chí
như
thế
nào?
Với
tôi
thì
tôi
sẽ
đầu
tư
vào
những
doanh
nghiệp
có
ý
tưởng
đơn
giản,
cụ
thể.
Ví
dụ
như
kiemviec.com
là
một
trong
những
trang
tìm
việc
hàng
đầu
ở
Việt
Nam.
Ý
tưởng
chỉ
đơn
giản
là
người
cần
tìm
việc
gửi
CV
lên
chi
kiemviec,
sau
đó
công
ty
sẽ
kết
nối
tới
các
doanh
nghiệp
có
nhu
cầu.
Quan
điểm
của
tôi
là
một
công
ty
mà
không
diễn
tả
được
mục
tiêu
công
ty
trong
30s
thì
xác
suất
công
ty
không
hiểu
mình
đang
làm
gì
là
rất
cao.
Ví
dụ
với
Chicilon
Media
có
ý
tưởng
đơn
giản
là
quảng
cáo
LCD
tại
các
tòa
nhà.
Hiệu
suất
đầu
tư
vào
những
công
ty
đó
như
thế
nào?
Rất
hiệu
quả
Tỷ
lệ
đầu
tư
thành
công
của
quỹ
đầu
tư
do
anh
quản
lý
là
bao
nhiêu?
Tất
cả
các
quỹ
mạo
hiểm
đều
có
tỷ
lệ
1/10
tức
là
10
khoản
đầu
tư
chỉ
có
1
khoản
thành
công
sinh
lời
đủ
để
bù
đắp
chi
phí
cho
9
khoản
đầu
tư
còn
lại.
Tuy
nhiên
tại
Việt
Nam
chưa
có
đủ
số
liệu
để
xác
định
mô
hình
1/10
có
đúng
hay
không.
Tôi
nghĩ
ở
Việt
Nam
có
tỷ
lệ
3-4/10
đối
với
một
số
lĩnh
vực.
Với
3-4
khoản
đầu
tư
mà
mức
sinh
lời
4-5
lần
sau
2-4
năm
là
ổn.
Còn
để
đợi
khoản
đầu
tư
mà
mức
sinh
lời
vài
chục
đến
vài
trăm
lần
nhưng
phải
sau
10
năm
thì
cũng
cần
cân
nhắc.
Với
lĩnh
vực
Internet
thì
có
thể
sẽ
rơi
vào
trường
hợp
thứ
nhất,
tức
là
1/20
còn
các
lĩnh
vực
khác
như
media,
sofware,
hay
công
nghiệp
phụ
trợ
thì
có
là
khả
năng
thứ
2.