“Trồng
lúa
được
trên
vùng
nước
mặn”-
tiến
sĩ
Võ
Công
Thành
(bộ
môn
di
truyền
giống
nông
nghiệp
-
khoa
nông
nghiệp
ĐH
Cần
Thơ)
quả
quyết
như
vậy,
trong
khi
tôi
tròn
xoe
mắt
vì
ngạc
nhiên.
TS
Võ
Công
Thành
với
cây
lúa
“Thần
nông
mặn”
trĩu
hạt
ở
trại
thực
nghiệm
ĐH
Cần
Thơ
-
Ảnh:
Hoàng
Tuyên
Và
sự
thật
tôi
đã
chứng
kiến
trên
cánh
đồng
ven
biển
xã
Vĩnh
Lộc
A
(huyện
Hồng
Dân,
tỉnh
Bạc
Liêu),
lúa
đang
lên
xanh
tốt
trên
ruộng
dù
nước
có
độ
mặn
9-10%o,
tương
đương
độ
mặn
dùng
để
nuôi
tôm.
“Dự
kiến
cuối
năm
nay
sẽ
nhân
ra
được
40
tấn
giống
lúa
chịu
mặn”
-
TS
Thành
cho
biết
như
vậy.
Biến
đổi
khí
hậu
khiến
nước
mặn
xâm
nhập
sâu
vào
ruộng
đồng
là
vấn
đề
đáng
ngại
nhất
đối
với
người
dân
ĐBSCL.
Vì
vậy,
khi
nghe
TS
Thành
đang
gặt
hái
những
kết
quả
hết
sức
khả
quan
trong
việc
gầy
dựng
lúa
chịu
mặn,
ai
cũng
vui
mừng.
"Nhìn
cảnh
nông
dân
ở
những
vùng
nhiễm
mặn
quá
khổ
cực, tôi
tự
nhủ
phải
làm
cho lúa
năng
suất
cao
hơn
và trồng
được
tại
vùng
nước
mặn"
Tiến
sĩ Võ
Công
Thành |
Bắt
đầu
từ
“đứa
con
bị
bỏ
rơi”Thật
ra
ông
là
“dân”
làm
đậu
nành
chớ
không
phải
lúa.
Năm
1998,
ĐH
Cần
Thơ
nhận
chuyển
giao
công
nghệ
“Điện
di
protein
SDS-PAGE”
của
Nhật
ứng
dụng
trên
cây
đậu
nành.
Ông
tự
vận
dụng
mày
mò
nghiên
cứu
trên
cây
lúa
và
phát
hiện
nhiều
điều
thú
vị:
kỹ
thuật
này
sẽ
giúp
mình
phát
hiện
gạo
mềm
hoặc
cứng
cơm,
phân
tích
được
hàm
lượng
sắt,
protein
và
nhiều
chất
khác
trong
hạt
gạo.
Từ
đó
có
thể
tuyển
lấy
nguồn
giống
tốt
nhất
theo
ý
muốn.
Ông
đề
xuất
được
chuyển
hướng
nghiên
cứu
hẳn
qua
cây
lúa,
nhưng
bị
cấp
trên
từ
chối
vì
sợ
không
đúng
lĩnh
vực
gây
lãng
phí.
Ông
lẳng
lặng
tự
làm
một
mình.
Bắt
đầu
từ
con
số
0,
ông
tự
mình
sưu
tầm
những
giống
lúa
có
từ
xa
xưa,
thường
gọi
là
lúa
mùa,
để
nghiên
cứu
đặc
điểm
sinh
trưởng
của
nó.
Lúc
đó,
địa
phương
nào
cũng
hô
hào
làm
giống
lúa
cao
sản
ngắn
ngày,
năng
suất
cao,
ngon
cơm
để
xuất
khẩu.
Những
giống
lúa
mùa
cao
tới
đầu
người,
năng
suất
thấp
(1-2
tấn/ha),
lại
dài
ngày,
tới
sáu
tháng
mới
thu
hoạch,
nên
chúng
thành
những
đứa
con
bị
bỏ
rơi
chẳng
ai
ngó
ngàng.
Nhưng
TS
Thành
lại
nghĩ
khác:
“Nếu
không
lưu
giữ
những
hạt
giống
xưa
của
ông
bà,
sau
này
lớp
trẻ
không
có
gì
để
nghiên
cứu.
Hơn
nữa,
làm
nghiên
cứu
giống
lúa
mà
trong
tay
không
có
một
tập
đoàn
giống
đa
dạng,
nhiều
chủng
loại
thì
rất
khó
ăn
nói”.
Vậy
là
ông
xách
xe
gắn
máy
rong
ruổi
tận
Cần
Giuộc
(Long
An),
Gò
Công
(Tiền
Giang),
Ba
Tri
(Bến
Tre),
Duyên
Hải
(Trà
Vinh),
qua
tận
Sóc
Trăng,
Bạc
Liêu,
Cà
Mau.
Sở
dĩ
ông
chọn
vùng
ven
biển
vì
chỉ
ở
đây
người
dân
mới
còn
trồng
lúa
mùa.
Tới
đâu
ông
cũng
xuống
ruộng
ăn
dầm
nằm
dề
với
nông
dân,
hỏi
han
đủ
điều
về
giống
lúa,
chất
đất,
độ
mặn
ngọt
của
nước.
Ông
đau
đáu
với
nỗi
lòng
của
bà
con:
“Vùng
này
trồng
lúa
xấu
lắm,
có
5-6
giạ/công
hà
(trên
dưới
1
tấn/ha),
chú
có
cách
nào
làm
cho
lúa
tốt
hơn
không?”.
Thấy
cảnh
nông
dân
quần
quật
trên
ruộng
quanh
năm
mà
không
đủ
ăn,
TS
Thành
thương
quá,
nhủ
bụng
“mình
phải
làm
cho
lúa
năng
suất
cao
hơn,
trồng
được
tại
vùng
nước
mặn
này”.
Ý
nghĩ
trồng
lúa
trên
vùng
nước
mặn
lóe
lên
từ
đó.
Những
chuyến
xuống
ruộng
với
nông
dân,
ông
cũng
xin
được
mỗi
nơi
một
ít
giống
lúa
mùa
địa
phương.
Điều
không
thể
ngờ
là
những
giống
lúa
này
được
nông
dân
trồng
ngay
trên
vùng
nước
mặn.
Ông
cầm
máy
đo
tại
chỗ.
Độ
mặn
lên
tới
9-10%o.
Trong
hai
năm
2000-2001,
ông
đã
gầy
dựng
được
một
“tập
đoàn”
giống
gồm
34
giống
lúa
ven
biển
ĐBSCL,
trong
đó
nhiều
giống
có
khả
năng
chịu
mặn
cao
như:
nếp
ruồi,
trắng
tép,
lem
bụi,
lúa
sỏi,
lúa
Cà
Mau...
“Thơm
phức”!
Có
giống
rồi,
TS
Thành
đem
về
phòng
thí
nghiệm
phân
tích,
đánh
giá
bằng
phương
pháp
điện
di
SDS-PAGE.
Ông
phát
hiện
có
17
giống
đạt
chuẩn
kháng
mặn
và
nhiễm
mặn,
đa
dạng
di
truyền
và
protein
dự
trữ.
Năm
2004,
ông
bắt
đầu
thực
hiện
đề
tài
nghiên
cứu
“Đánh
giá
khả
năng
chịu
mặn
và
đa
dạng
di
truyền
protein
dự
trữ
của
các
giống
lúa
trồng
ven
biển
vùng
ĐBSCL”
nhằm
khai
thác
vốn
gen
quý,
phục
vụ
công
tác
chọn
tạo
giống.
Ông
chọn
những
giống
giỏi
chịu
mặn
nhất
nhân
ra
trong
phòng
thí
nghiệm.
Chà
đi
xát
lại
nhiều
lần,
cuối
cùng
ông
tâm
đắc
nhất
hai
giống
một
bụi
đỏ
và
lúa
sỏi,
những
giống
hiếm
hoi
còn
sót
lại
trong
dân
gian
nhưng
có
khả
năng
chịu
mặn
ít
giống
nào
bì
kịp.
“Chỉ
cái
tên
thôi
đã
chứng
minh
khả
năng
chống
chọi
với
thiên
nhiên
khắc
nghiệt
của
chúng
-
TS
Thành
cười
hiền
hậu
-
Một
bụi
đỏ
là
giống
có
vỏ
trấu
màu
đỏ,
chỉ
có
một
bụi
duy
nhất
chớ
không
tẻ
ra
nhánh
như
nhiều
giống
lúa
khác.
Còn
lúa
sỏi
là
loại
có
hạt
tròn
như
viên
sỏi,
lại
sống
được
trên
đất
khô
cằn,
nước
mặn
nên
nông
dân
đặt
tên
“sỏi”
để
nói
lên
tính
chất
cứng
rắn
của
nó.
Cũng
vì
vậy
giống
này
khá
cứng
cơm,
ít
được
ưa
chuộng
trên
thị
trường”.
Sau
đó,
ông
dùng
kỹ
thuật
“điện
di
protein”
cải
thiện
các
giống
này,
đặc
biệt
làm
cho
chúng
trở
nên
mềm
cơm.
Rồi
ông
“bốc”
cái
phần
thơm
của
giống
lúa
thơm
lai
tạo
với
giống
chịu
mặn,
cho
ra
giống
có
tên
TP,
tức
là
“thơm
phức”.
Tới
năm
2005,
ông
đã
lai
tạo
thành
công
sáu
dòng
lúa
mang
tên
TP
vừa
mềm
cơm,
vừa
thơm,
vừa
kháng
rầy
nâu
và
đặc
biệt
chịu
được
độ
nước
mặn
3%o.
Cũng
năm
2005,
ông
cho
công
bố
trên
tập
san
Nghiên
Cứu
Khoa
Học của
Trường
ĐH
Cần
Thơ
đề
tài
“Khả
năng
chịu
mặn
và
đa
dạng
di
truyền
protein
dự
trữ
của
một
số
giống
lúa
trồng
ven
biển
vùng
ĐBSCL”.
Ông
đề
nghị
phục
tráng
các
giống
lúa
có
khả
năng
chịu
mặn,
đạt
chất
lượng
thương
phẩm
và
dinh
dưỡng
như:
tài
nguyên
(LA),
nàng
níu,
trắng
tép,
nàng
thơm
Chợ
Đào
(TG
2)...
Tuy
nhiên,
công
bố
trên
như
gió
lùa
nhà
trống,
chẳng
ai
đoái
hoài,
bởi
nó
dài
ngày
quá,
tới
sáu
tháng
mới
thu
hoạch.
Nhờ...
biến
đổi
khí
hậu
“Nếu
không
có
biến
đổi
khí
hậu,
chắc
ba
cái
lúa
giống
chịu
mặn
của
tui
bị
xếp
xó
tới...
mục
luôn”
-
TS
Thành
bộc
bạch
như
vậy.
Năm
2008,
các
tỉnh
ven
biển
ĐBSCL
bị
hạn,
mặn
xâm
nhập
sâu
vô
nội
đồng.
Lúa
bị
nhiễm
mặn
lớp
chết
lớp
giảm
năng
suất,
nông
dân
kêu
rêu
quá
xá.
Các
tỉnh
chạy
đôn
chạy
đáo
kiếm
giống
chịu
hạn,
mặn
để
phù
hợp
biến
đổi
khí
hậu.
Họ
tới
ĐH
Cần
Thơ
và
được
giới
thiệu
gặp
TS
Thành.
Ông
“đánh
thức”
mấy
hạt
giống
dậy,
đưa
giống
TP6
xuống
trồng
thử
nghiệm
ở
huyện
Cầu
Kè
(Trà
Vinh).
Mùa
khô
năm
đó,
nông
dân
bơm
nước
mặn
từ
sông
lên
tưới.
Ruộng
chỗ
khác
trổ
bông
lép
xẹp,
chỗ
giống
TP6
vẫn
nặng
oằn
trái
me.
Nó
cho
năng
suất
4-6
tấn/ha.
Nông
dân
khoái
quá
kiếm
mua
rần
rần.
Vụ
hè
thu
2011
vừa
qua
có
nông
dân
làm
được
tới
7-8
tấn/ha.
Do
hạt
gạo
mềm
cơm,
nấu
lên
lại
“thơm
phức”
nên
khách
hàng
thích
quá
hỏi
mua
tới
tấp.
Công
ty
Lương
thực
Trà
Vinh
phải
đặt
hàng
nông
dân
sản
xuất,
bao
tiêu
sản
phẩm
và
xuất
khẩu.
Sau
đó,
TS
Thành
làm
thủ
tục
đăng
ký
và
được
Cục
Sở
hữu
trí
tuệ
(Bộ
KH-CN)
cấp
giấy
chứng
nhận
nhãn
hiệu
“TP”
cho
loại
gạo
chất
lượng
cao
này.
TS
Thành
không
dừng
lại
đó,
khi
nghe
ông
Võ
Văn
Út,
bí
thư
Huyện
ủy
Hồng
Dân,
bức
xúc:
“Chỉ
mới
giải
quyết
được
trên
diện
tích
16.000ha
vùng
mặn
xen
ngọt,
giúp
nông
dân
làm
được
một
vụ
lúa,
một
vụ
tôm.
Nhưng
còn
6.000ha
vùng
quá
mặn,
rất
cần
có
giống
chịu
mặn
hơn
nữa
để
giải
quyết
nỗi
lo
của
hàng
ngàn
nông
dân
trong
tình
hình
biến
đổi
khí
hậu,
hạn
mặn
xâm
nhập
ngày
càng
sâu
như
hiện
nay”.
Ông
lại
lao
vào
tìm
tòi,
nghiên
cứu
và
cho
ra
đời
giống
CTUS
có
sức
chịu
được
hơn
9-10%o
độ
mặn.
Ông
giải
thích:
“CTU
có
nghĩa
là
ĐH
Cần
Thơ,
S
tiếng
Anh
là
salinity,
có
nghĩa
“chịu
mặn”.
Theo
dân
gian
cũng
có
thể
gọi
nôm
na
là
“Thần
nông
mặn”.
Tháng
4-2011,
4kg
giống
đầu
tiên
của
“Thần
nông
mặn”
được
gieo
mạ
trên
200m2
tại
xã
Vĩnh
Lộc
A.
Một
tháng
sau,
số
mạ
trên
được
cấy
nhân
ra
7.000m2.
Đầu
tháng
7-2011,
chúng
tôi
xuống
thăm
đồng
thì
thấy
đã
có
gần
10ha
lúa
“Thần
nông
mặn”
được
nhân
rộng.
Ông
Võ
Văn
Út
cho
biết
lúa
đang
phát
triển
tốt
và
chỉ
còn
chờ
thu
hoạch.
Ông
chắc
chắn
sẽ
thu
hoạch
được
đợt
này
năng
suất
4-5
tấn/ha,
vì
đặc
tính
của
lúa
chịu
mặn
là
khó
khăn
trắc
trở
chủ
yếu
ở
giai
đoạn
đầu,
từ
lúc
nảy
mầm
tới
30
ngày
tuổi.
“Lúc
đó
nếu
chịu
mặn
không
nổi
là
nó
chết
lâu
rồi.
Nay
cây
lúa
đã
lớn,
thân
cứng
cáp
đứng
vững
gần
bằng
đầu
người
thì
coi
như
chắc
ăn
rồi”.
Như
một
lão
nông
Năm
nay
55
tuổi,
tóc
bạc
gần
hết
nhưng
TS
Thành
vẫn
thường
xuyên
chạy
xe
gắn
máy,
lội
xuống
ruộng
đồng
hết
Trà
Vinh
tới
Bạc
Liêu,
Sóc
Trăng...
giống
như
lão
nông
đi
thăm
ruộng.
Năm
1980,
chàng
sinh
viên
quê
Bảy
Ngàn
(Hậu
Giang)
tốt
nghiệp
ngành
trồng
trọt
khoa
nông
nghiệp
(ĐH
Cần
Thơ)
và
được
giữ
lại
trường
công
tác
tại
khoa
này.
Năm
1997,
ông
lấy
bằng
thạc
sĩ
nông
học
sau
khi
trải
qua
khóa
tập
huấn
kỹ
năng
nâng
cao
trình
độ
chọn
giống
tại
Nhật.
Năm
2003,
ông
bảo
vệ
thành
công
luận
án
tiến
sĩ
công
nghệ
sinh
học
tại
Nhật.
Hiện
nay
TS
Võ
Công
Thành
là
trưởng
phòng
thí
nghiệm
di
truyền
-
chọn
giống
và
ứng
dụng
công
nghệ
sinh
học,
phó
bộ
môn
di
truyền
giống
nông
nghiệp,
khoa
nông
nghiệp
Trường
ĐH
Cần
Thơ. |