Đồng
bằng
cần
học
hỏi,
chuẩn
bị
tốt
hơn
cho
tương
lai
Thứ
sáu
-
04/06/2021
04:37
Tanit
Wongdurongdet
từng
kinh
doanh
trong
nhiều
lĩnh
vực,
và
rồi
trở
thành
nhà
tư
vấn
cho
các
công
ty
Thái
Lan
tại
Việt
Nam.
Ông
nói
khi
các
chuyến
bay
từ
Thái
Lan
vào
Việt
Nam
bị
gián
đoạn
vì
dịch
bệnh,
cơ
hội
thúc
đẩy
dự
án
hợp
tác
xuất
khẩu
chế
biến
trái
cây
và
nông
sản
sẽ
phải
chờ
lâu
hơn
nữa.
Có
thay
đổi
gì
trong
việc
làm
ăn
của
người
Thái
ở
đồng
bằng?
Dịch
Covid-19
hoành
hành,
những
doanh
nghiệp
Thái
đầu
tư
ở
đồng
bằng,
làm
bài
bản,
có
kế
hoạch
kinh
doanh
đàng
hoàng,
đầu
tư
cơ
sở
sản
xuất,
hợp
đồng
lao
động…
cùng
chịu
ảnh
hưởng
như
doanh
nghiệp
Việt.
Trong
khi
đó,
tiểu
thương
có
xu
hướng
gia
tăng
nhiều
hơn.
Họ
đến
tìm
hiểu
xem
ở
đây
cần
gì
thì
nhập
hàng
để
bán
chứ
không
thuê
đất,
làm
cơ
sở
sản
xuất
như
hồi
xưa
nữa.
Các
tiểu
thương
tận
dụng
ưu
thế
về
chất
lượng,
mẫu
mã,
tiện
ích.
Họ
làm
ăn
được
là
do
làm
thương
hiệu,
hình
ảnh
quốc
gia.
Hiện
nay,
các
tiểu
thương
tại
Việt
Nam
nói
bán
đồ
Thái,
nhưng
bao
nhiêu
phần
trăm
là
đồ
Thái
rất
khó
biết.
Trước
khi
tôi
sang
Việt
Nam,
cũng
đem
hàng
của
Trung
Quốc
về
Thái
để
bán.
Chỉ
cần
thấy
mẫu,
một
tuần
là
có
hàng.
Họ
phân
ra
hàng
loại
1,2…
Khi
lấy
hàng,
họ
cho
30%
thì
ai
mà
không
thích.
Họ
làm
đồ
giả
mà
thật
–
giả
khó
phân
biệt.
Giới
trẻ
Trung
Quốc
tư
duy
“cần
tiền”,
bất
chấp
luật
pháp.
Tôi
từng
mua
bán
các
loại
phế
phẩm
với
họ.
Lúc
cần
thì
tăng
giá
đột
ngột,
tới
khi
họ
biết
mình
dựa
vào
họ
rồi
thì
đủ
chiêu
trò
nhằm
hạ
giá.
Theo
ông,
việc
đầu
tư
hậu
đại
dịch
cũng
sẽ
thay
đổi?
Việt
Nam
có
ưu
thế
là
các
hiệp
định
thương
mại
đa
phương,
song
phương.
Nhiều
nước
vô
để
dựa
vào
lợi
thế
đó.
Nếu
các
lợi
thế
này
kéo
dài
thì
các
nước
sẽ
hướng
tới
Việt
Nam.
Việt
Nam
có
thể
phát
triển
mạnh
nếu
lôi
kéo
được
những
doanh
nghiệp
lớn
từ
Mỹ,
Nhật…
Họ
làm
việc
bài
bản,
có
đạo
đức,
chịu
đầu
tư
công
nghệ
nhiều
hơn.
Nên
nhớ
các
nước
cũng
có
chính
sách
để
giữ
chân
doanh
nghiệp
ở
lại
hoặc
đẩy
ra
xa.
Singapore
khôn
khéo
trong
cách
xếp
hạng
và
lựa
chọn
dự
án
đầu
tư,
ngành
nghề,
dùng
nguyên
liệu
gì,
mức
độ
ô
nhiễm
sao?
Ngành
làm
vỏ
xe,
bình
ắc
quy…
ô
nhiễm
nhiều
thì
họ
tìm
cách
đẩy
ngành
này
đi
nước
khác.
Malaysia
cũng
tương
tự.
Từng
làm
việc
với
các
công
ty
đa
quốc
gia,
tôi
nhận
ra
sự
thay
đổi
trong
cách
chọn
nơi
đầu
tư,
chẳng
hạn
tìm
nơi
có
nguồn
lao
động
địa
phương
ổn
định,
tránh
nơi
có
giá
thuê
đất
quá
cao.
Hỏi
nhà
đầu
tư
sao
không
chọn
Cần
Thơ
để
gia
công
áo
quần
thể
thao
cho
Adidas
và
Nike.
Họ
nói
giá
thuê
đất
ở
Cần
Thơ
cao,
lao
động
địa
phương
chỉ
chiếm
tỷ
lệ
rất
ít,
đa
số
là
người
lao
động
đến
từ
tỉnh
khác.
Họ
theo
dõi
thị
trường
lao
động
ở
các
công
ty
may,
có
công
ty
treo
bảng
tuyển
dụng
200
lao
động.
Nhìn
cái
bảng
cũ
mèm
vẫn
còn
treo,
chứng
tỏ
tuyển
dụng
lao
động
khó.
Họ
đi
khảo
sát
mức
lương
ở
các
tỉnh,
sau
đó
chọn
Long
Xuyên,
An
Giang,
Hậu
Giang,
Vĩnh
Long.
Nhà
đầu
tư
nước
ngoài
nghiên
cứu
kỹ
lắm,
họ
tính
kỹ
như
vậy
nghĩa
là
muốn
làm
lâu
dài.
Làm
cố
vấn
cho
một
số
công
ty,
nhìn
những
thành
công
của
doanh
nhân
Thái
tại
Việt
Nam,
chợ
Thái
do
người
Việt
tổ
chức
ông
nghĩ
gì
về
nơi
ông
đang
sống?
Nhất
là
với
tư
cách
là
con
rể
của
miền
Tây…
Sống
và
công
tác
ở
miền
Tây
cũng
giống
như
Thái
Lan
trước
đây,
hiện
tại
gặp
nhiều
khó
khăn.
Nhưng
cần
có
sự
chuẩn
bị
tốt
khi
gặp
phải,
đôi
khi
sẽ
khó
khăn
hơn.
Hồi
còn
trẻ,
tôi
chọn
cách
học:
để
có
kỷ
luật
tốt
nên
học
theo
Đức.
Muốn
mua
bán
thì
học
theo
Nhật.
Muốn
giỏi
luật
thì
học
cách
làm
luật
theo
Pháp.
Thời
điểm
này
thì
chọn
Singapore
vì
họ
đã
chọn
lọc
từ
những
cái
tốt
của
các
nước
khác.
Nhật,
Mỹ
đi
trước.
Hàn
Quốc
thành
công
là
cũng
học
từ
Nhật.
Việt
Nam
muốn
thành
công
thì
nên
học
theo
Singapore
và
học
thất
bại
từ
Thái
Lan.
Do
Việt
Nam
có
thời
gian
dài
chịu
chiến
tranh,
cần
rút
ngắn
thời
gian
thì
nên
học
theo
Singapore,
chọn
lọc
và
kết
hợp
cả
hai
cho
phù
hợp.
Miền
Tây
có
nhiều
sản
phẩm
OCOP.
Bên
Thái
có
OTOP,
mỗi
làng
một
sản
phẩm
đặc
trưng.
OTOP
làm
rất
bài
bản,
ví
dụ
làng
này
nổi
tiếng
về
mãng
cầu,
ngon
nhất
thì
người
ta
biết
rồi,
làm
gì
cho
khác
biệt,
độc
đáo
để
nói
đến
sản
phẩm
là
biết
tiếng
làng,
xã,
huyện
đó.
Làng
sạch
sẽ,
lịch
sự
và
làng
nào
cũng
quen
sử
dụng
phế
liệu
để
làm
thành
sọt
rác,
tận
dụng
phế
liệu…
Cách
tổ
chức
làng,
xã
ở
Thái
Lan
đã
được
hình
thành
từ
lâu
rồi.
Những
người
ở
làng,
họ
sống
lâu
và
yêu
mến
làng
quê.
Làng
quê
có
công
ăn
việc
làm,
có
thu
nhập,
họ
hài
lòng
như
bây
giờ
là
được
định
hình
từ
thời
Quốc
vương
Rama
I
từ
cuối
thế
kỷ
18.
Đức
Vua
đến
châu
Âu
thấy
Pháp,
Anh
sống
như
thế
nào,
đưa
kiến
thức
đó
về
Thái.
Khoảng
240
năm
trước,
người
Thái
nghĩ
tới
làm
đường
xá,
đổi
cách
ăn
mặc.
Rồi
dần
dần
cải
cách
về
pháp
luật.
Đức
Vua
tập
trung
cho
sự
phát
triển
đất
nước
và
ngành
nông
nghiệp
bởi
nông
nghiệp
là
nền
tảng,
nếu
muốn
công
nghiệp
hóa
nông
nghiệp
phải
được
đặt
lên
hàng
đầu.
Ngài
đích
thân
đi
từng
làng
quê,
nói
chuyện
hỏi
thăm
dân
và
hướng
dẫn
các
cán
bộ
từ
tỉnh
cho
tới
xã
làm
theo.
Dân
cảm
mến
vì
họ
thấy
nhà
vua
hành
động
thực
tế,
thương
dân.
Tính
cộng
đồng
ở
Thái
Lan
rất
cao.
Các
hiệp
hội,
Bộ
Nông
nghiệp
hoạt
động
mạnh
và
hỗ
trợ
lẫn
nhau.
Thí
dụ
mình
muốn
trồng,
muốn
làm
gì
thì
liên
hệ
Sở
Nông
nghiệp.
Họ
sẽ
có
bộ
phận
chuyện
trách,
chuyên
viên
tới
đánh
giá,
hướng
dẫn
thậm
chí
tìm
thị
trường
cho
mình.
Bởi
vì
họ
quan
niệm
nhiều
người
có
đất
đai
nhưng
chưa
chắc
biết
cách
trồng,
chưa
biết
bán
ở
đâu.
Thái
Lan
cũng
giống
Việt
Nam
là
có
mùa
vụ,
cũng
có
chuyện
giá
lên
xuống.
Nhưng
nếu
giá
sản
phẩm
tươi
mùa
này
thấp
quá
thì
người
ta
làm
thành
bánh,
kẹo.
Sầu
riêng
mùa
này
rẻ
quá
thì
họ
làm
bánh
sầu
riêng,
kẹo
sầu
riêng,
cấp
đông…
tăng
thêm
giá
trị
cho
sản
phẩm.
Âu
cũng
là
cách
tự
giải
cứu
cho
các
ngành
hàng.