Giáo
sư
Vũ
Đức
Vượng
(ảnh)
quê
gốc
ở
Nam
Định,
được
học
bổng
du
học
ở
Mỹ
năm
18
tuổi
và
tốt
nghiệp
Đại
học
Oa-sinh-tơn
(Washington
University
in
St.Louis),
bang
Mit-sơ-ri.
Ông
đã
định
cư
ở
Mỹ
hơn
40
năm,
là
người
chứng
kiến
và
hiểu
rõ
cuộc
sống
và
những
vấn
đề
của
cộng
đồng
người
Việt
tại
Mỹ.
Với
tư
tưởng
tiến
bộ,
ông
nỗ
lực
“để
Việt
kiều
cũng
như
người
Mỹ
hiểu
hơn
về
Việt
Nam
một
cách
đúng
sự
thật
nó
đang
diễn
ra”.
Tình
yêu
với
quê
hương
Những
năm
sau
1975
dòng
người
Việt
Nam
di
cư
sang
Mỹ
trong
tình
trạng
tay
trắng
và
không
có
công
ăn
việc
làm.
Rào
cản
về
ngôn
ngữ
cùng
với
sự
khắc
nghiệt
của
nơi
đất
khách
quê
người
làm
cho
họ
lâm
vào
tình
cảnh
bi
đát.
Ông
Vượng
là
người
đã
góp
phần
giúp
cho
những
người
này
tìm
việc
làm
và
ổn
định
cuộc
sống
tại
Mỹ,
đồng
thời
khuyến
khích
người
Mỹ
bỏ
cấm
vận
để
bình
thường
hoá
quan
hệ
giữa
hai
nước.
Ông
Vượng
cho
biết:
“Những
ký
ức
kinh
hoàng
và
sự
khốn
khó
của
những
người
lưu
vong
đã
làm
cho
tâm
lý
hận
thù
rất
nặng
nề
trong
những
người
Việt
tại
Mỹ
lúc
bấy
giờ.
Đa
phần
trong
số
họ
có
định
kiến
và
cái
nhìn
chống
đối
Việt
Nam.
Vừa
giúp
người
mới
đến,
vừa
giúp
họ
thay
đổi
suy
nghĩ
về
quê
hương
của
mình
là
công
việc
của
tôi”.
Giáo
sư
Vũ
Đức
Vượng
từng
là
Giám
đốc
khu
vực
Pacific
Mountain
Region
của
Ủy
ban
Dịch
vụ
Những
người
bạn
Hoa
Kỳ
(AFSC).
Ông
được
đào
tạo
về
chính
trị,
cộng
đồng
và
luật.
Từ
năm
1975,
ông
chủ
yếu
làm
việc
trong
lĩnh
vực
tổ
chức
cộng
đồng.
Từ
năm
1984
tới
năm
1997,
ông
lãnh
đạo
Trung
tâm
Tái
định
cư
dành
cho
người
tị
nạn
Đông
Nam
á
tại
San
Phran-si-xcô
(Centre
for
Southeat
Asian
Refugee
Resettlement).
Ông
cũng
làm
việc
cho
Văn
phòng
lập
pháp
bang
Ca-li-phooc-ni-a
và
phụ
trách
Văn
phòng
Điều
tra
thống
kê
vùng
phía
Tây
thành
phố
San
Phran-si-xcô
trong
đợt
điều
tra
thống
kê
năm
2000.
Sau
đó,
ông
chuyển
hẳn
sang
dạy
đại
học
(được
15
năm)
và
từ
mấy
năm
nay,
ông
chuyển
sang
chương
trình
SYA
vì
ông
muốn
“gieo
mầm
Việt
Nam
cho
người
Mỹ”
-
một
cách
đóng
góp
của
ông
cho
Việt
Nam.
Gieo
hạt
giống
tình
yêu
Mẫu
mực
ông
bà
trồng
cây
đức
Thảo
hiền
cha
mẹ
kết
quả
nhân
Ngọ
Ngọc
Thơ
|
Một
điều
rất
quan
trọng
là
thế
hệ
người
Việt
tiếp
theo
được
sinh
ra
tại
Mỹ
dù
ít
liên
quan
đến
quá
khứ
nhưng
họ
cũng
nhìn
Việt
Nam
bằng
cái
nhìn
bị
ảnh
hưởng
từ
cha
mẹ
họ.
Báo
chí
tiếng
Việt
cũng
như
những
người
hướng
dẫn
cộng
đồng
người
Việt
tại
Mỹ
còn
bị
ảnh
hưởng
của
quá
khứ,
nên
thường
đưa
thông
tin
một
chiều,
chống
lại
Việt
Nam,
tìm
mọi
cách
ngăn
cản
người
Việt
trở
về
quê
hương
vì
sợ
bị
tẩy
não.
Khi
được
hỏi
bí
quyết
để
giúp
những
người
Việt
trẻ
tại
Mỹ
thay
đổi
cái
nhìn
về
Việt
Nam
ông
Vượng
trả
lời:
“Cách
tốt
nhất
để
thay
đổi
những
gì
mà
cha
mẹ
họ
và
báo
chí
đã
nhồi
vào
trong
đầu
họ
là
để
họ
tự
nhìn,
quan
sát
và
tự
đánh
giá
bằng
cảm
nhận
của
chính
họ.
Bây
giờ
tôi
đi
dạy
học
về
chính
trị
và
xã
hội,
viết
báo,
tổ
chức
lớp
học
về
lịch
sử
và
văn
hoá
Việt,
dẫn
học
sinh
về
Việt
Nam
để
họ
tận
mắt
nhìn
thấy
quê
hương
mình”.
Tháng
1-2007,
ông
Vượng
đã
tổ
chức
chuyến
thăm
Việt
Nam
cho
đoàn
hơn
40
người
gồm
sinh
viên
người
Mỹ
gốc
Việt,
sinh
viên
người
Mỹ
và
một
số
giảng
viên
của
trường
San
Jose.
Chuyến
đi
nằm
trong
chương
trình
“Cơ
hội
giáo
dục
toàn
cầu”
(Global
Education
Opportunity)
gọi
tắt
là
GEO.
Theo
đánh
giá
của
ông
Vượng,
chuyến
đi
đã
làm
cho
những
sinh
viên
Việt
kiều
hiểu
hơn
về
quê
hương
mình
bằng
chính
những
trải
nghiệm
của
họ.
Ai
cũng
muốn
tìm
hiểu
về
nguồn
gốc
của
mình,
những
người
Việt
trẻ
tại
Mỹ
cũng
vậy.
“Trước
đây
họ
nhìn
Việt
Nam
bằng
con
mắt
của
cha
mẹ
họ
-
những
người
di
cư
sang
Mỹ
những
năm
70
thế
kỷ
trước.
Còn
bây
giờ,
khi
họ
đến
đây,
họ
nhìn
Việt
Nam
bằng
chính
con
mắt
của
mình.
Đa
số
những
sinh
viên
của
tôi
khi
đã
đến
Việt
Nam
một
lần
thì
đều
muốn
được
trở
lại”.
Ông
nhận
thấy
những
sinh
viên
người
Việt
tại
Mỹ
cũng
như
những
sinh
viên
Mỹ
rất
thích
thú
với
văn
hoá
Việt
Nam.
Họ
thích
tìm
hiểu
về
món
ăn,
truyền
thống
lịch
sử,
lối
sống
của
người
Việt...
“Nhiều
sinh
viên
của
tôi
đã
rất
ngạc
nhiên
khi
biết
về
những
truyền
thống
văn
hoá
của
người
Việt,
họ
bắt
đầu
tìm
thấy
tình
yêu
và
niềm
tự
hào
về
nguồn
gốc
của
mình,
về
đất
nước
của
mình”.
Chuyến
trở
về
Việt
Nam
của
những
sinh
viên
Mỹ
gốc
Việt
đã
kết
thúc.
Họ
trở
về
Mỹ
mang
theo
những
tấm
hình
chụp
tại
Việt
Nam,
những
mảnh
lụa
Hà
Đông,
những
con
tò
he,
những
chiếc
áo
dài...
và
cả
một
cái
nhìn
mới
về
quê
hương
của
mình.
Mỗi
người
đều
có
một
quê
hương
để
nhớ
mỗi
khi
đi
xa,
để
trở
về
sau
khi
đã
mỏi
gối
chồn
chân,
để
biết
mình
sinh
ra
từ
đâu
và
để
tự
hào.
Ông
Vũ
Đức
Vượng
là
người
đã
giúp
kết
nối
tình
yêu
quê
hương
cho
những
Việt
kiều
xa
quê.
Bài
học
về
lòng
yêu
nước
“Giúp
học
sinh
hiểu
về
Việt
Nam
sẽ
khiến
cho
Việt
Nam
luôn
ở
trong
tim
họ”.
Đó
chính
là
lý
do
khiến
Giáo
sư
Vũ
Đức
Vượng,
Hiệu
trưởng
SYA
mang
chương
trình
tiên
tiến
này
đến
Việt
Nam.
Mặc
dù
đang
là
giảng
viên
các
trường
đại
học
của
Mỹ,
Giáo
sư
sẵn
sàng
về
Việt
Nam
để
mở
1
ngôi
trường
có
ít
học
sinh
nhất
nhưng
lại
có
nhiều
thử
thách
nhất
để
cho
các
học
sinh
Mỹ
của
mình
tới
Việt
Nam
và
giúp
họ
hiểu
về
đất
nước
và
con
người
Việt
Nam.
SYA
(viết
tắt
của
School
Year
Abroad,
có
nghĩa
là:
Niên
học
ở
nước
ngoài)
do
một
tổ
chức
giáo
dục
Mỹ
lập
ra
từ
năm
1964.
Sáng
kiến
của
chương
trình
SYA
là
hằng
năm
tổ
chức
một
niên
học
ở
nước
ngoài
cho
sinh
viên
vừa
hấp
thụ
văn
hóa
vừa
tìm
hiểu
thực
tế
một
quốc
gia
ngay
trong
lòng
dân
nước
ấy.
Các
học
sinh
tuổi
16-18
thích
đi
nước
nào
tùy
ý
chọn.
Hiện
nay,
SYA
đã
có
khóa
học
ở
5
nước:
Pháp,
ý,
Tây
Ban
Nha,
Trung
Quốc,
Việt
Nam.
Mỗi
khóa
học
không
đông
nhưng
ý
nghĩa
rất
lớn.
Bốn
nước
kia
đã
hoạt
động
từ
khá
lâu
và
có
khoảng
50-60
học
sinh
ở
mỗi
nước,
Việt
Nam
mới
có
3
khóa:
năm
2010
với
13
học
sinh
và
năm
nay
2011
có
15.
Giáo
sư
Vũ
Đức
Vượng
cho
biết,
người
Việt
Nam
có
câu
“Vô
tri
bất
mộ”
-
nghĩa
là
không
biết
thì
không
thể
yêu
mến
được.
Khi
đã
biết
rồi
thì
càng
thêm
nhiều
tình
cảm.
Mặc
dù,
số
các
bạn
trẻ
Mỹ
tới
Việt
Nam
mỗi
năm
không
nhiều
nhưng
ông
hy
vọng
hạt
giống
mình
gieo
bây
giờ,
20
năm
nữa
sẽ
cho
quả
ngọt.
Bây
giờ,
ông
đã
bắt
đầu
thấy
được
“quả
ngọt”
của
20
năm
trước.
Khi
đó,
Việt
Nam
vẫn
chưa
mở
cửa
với
thế
giới,
việc
ra
vào
Việt
Nam
không
được
thuận
lợi
như
hiện
nay,
một
số
người
Mỹ
muốn
tới
Việt
Nam
đã
được
ông
giúp
đỡ.
Trong
số
những
người
đó,
có
những
người
hiện
đang
làm
việc
tại
Đông
Nam
á,
trong
đó
có
Việt
Nam
và
đảm
nhận
những
trọng
trách
lớn.
Với
tư
tưởng
tiến
bộ,
ông
đã
làm
cho
người
Việt
tại
Mỹ
cũng
như
người
Mỹ
hiểu
đúng
hơn
về
Việt
Nam.
Chính
những
chuyến
đi
về
Việt
Nam
đã
làm
họ
thay
đổi
cách
nhìn.
Vậy
nhưng
khi
nói
về
những
việc
đã
làm,
ông
chỉ
khiêm
tốn:
“Tôi
không
có
dự
án
gì
lớn,
sống
bằng
nghề
dạy
học.
Quan
điểm
của
tôi:
Mọi
người
phải
có
mục
đích
lớn
và
phải
làm
hết
khả
năng
trong
phạm
vi
có
thể
của
mình.
Mỗi
người
có
một
cơ
hội
của
mình.
Trong
khả
năng
nhỏ
bé
của
một
nhà
giáo,
tôi
muốn
giúp
học
sinh
biết
thêm
về
Việt
Nam”.
Bài
toán
giáo
dục
Là
một
nhà
giáo
dục,
ông
tâm
sự:
Tôi
phải
thừa
nhận
là
nền
giáo
dục
của
Việt
Nam
cần
phải
thay
đổi
một
vài
điểm
căn
bản
để
dân
tộc
ta
bắt
kịp
với
thế
giới
trong
thế
kỷ
XXI
này.
Một
điểm
then
chốt
là
chúng
ta
cần
dạy
cho
học
sinh
biết
công
tác,
biết
tự
tìm
tòi,
biết
đánh
giá,
lựa
chọn
con
đường
đi
cho
chính
mình.
Lúc
còn
nhỏ,
tôi
chỉ
biết
học
là
học,
học
để
thuộc
bài,
học
để
thi
cho
đậu,
học
để
lấy
bằng…
Có
những
môn
mình
thích
thì
mình
tha
thiết,
học
lấy
học
để,
học
không
chán,
nhiều
khi
còn
bỏ
ăn
bỏ
ngủ…
Những
môn
không
thích
hoặc
yếu
kém
thì
tìm
hết
cách
tránh
né
và
chỉ
học
lấy
lệ,
đủ
để
thi
cho
đậu
là
được
rồi,
sau
đó
“chữ
thầy
giả
thầy”
ngay.
Mãi
đến
quá
nửa
thế
kỷ
tuổi
đời,
tôi
mới
“vỡ
nhẽ”
ra
là
việc
học
có
hai
phần
chính:
học
để
“làm
việc”
và
học
để
“làm
người”.
Thường
môn
học
nào
cũng
có
ứng
dụng
cho
cả
hai
và
rất
ít
môn
chỉ
dùng
được
vào
một
việc
thôi.
Toán
chẳng
hạn,
phần
lớn
dùng
để
“làm
việc”
nhưng
toán
cũng
dạy
cho
mình
phân
biệt
rõ
ràng
cái
đúng,
cái
sai…
và
từ
đó,
có
thể
giúp
người
đang
lớn
lên
biết
tự
kỷ
luật
phần
nào.
Ngược
lại,
triết
lý
hoặc
xã
hội
học
giúp
mình
tự
hiểu
mình,
hiểu
người
và
từ
đó
hy
vọng
là
sẽ
biết
xử
sự,
biết
“làm
người”
nhưng
cũng
có
ứng
dụng
vào
công
việc,
vào
chính
sách
xã
hội.
Nếu
chúng
ta
cải
tổ
được
nền
giáo
dục
từ
chương
sang
thực
dụng,
từ
nhai
lại
sang
sáng
kiến
và
từ
cạnh
tranh
sang
cộng
tác,
Việt
Nam
chúng
ta
sẽ
có
cơ
hội
tìm
được
chỗ
đứng
vững
vàng
trong
thế
kỷ
mới
này.
Chúng
ta
bàn
nhiều
đến
đổi
mới
giáo
dục
đại
học
nhưng
thực
chất
là
cần
đổi
mới
từ
trước
đó
rất
lâu,
từ
bậc
mầm
non
chẳng
hạn.
Không
chỉ
cải
tổ
giáo
dục
từ
trong
nhà
trường
mà
phải
cải
tổ
từ
trong
gia
đình.
Đặt
trọng
tâm
mở
rộng
văn
hoá
ngang
tầm
với
kinh
tế
Đây
là
một
trong
những
vấn
đề
mà
Giáo
sư
Vũ
Đức
Vượng
trăn
trở.
Ông
tâm
sự:
Với
khoảng
ba
triệu
người
trong
cộng
đồng
người
Việt
ở
nước
ngoài:
con
số
tuy
nhỏ
nhưng
triển
vọng
không
nhỏ.
Tuy
nhiên,
đó
mới
là
triển
vọng.
Thực
tế,
khối
người
Việt
ở
nước
ngoài,
cũng
như
đa
số
người
Việt
trong
nước,
chưa
đủ
thức
tỉnh,
chưa
đủ
nhìn
rộng
và
chưa
đủ
quyết
tâm
đặt
quyền
lợi
quốc
gia
lên
trên
hết
để
có
thể
tận
dụng
triển
vọng
này.
Việt
Nam
ta
vẫn
còn
bị
nhiều
hiểu
lầm:
Hình
ảnh
sâu
đậm
nhất
về
Việt
Nam
vẫn
là
cuộc
chiến.
Một
số
lớn
người
nước
ngoài
coi
ta
là
“nạn
nhân”
và
họ
có
cảm
tình.
Một
số
khác
vẫn
còn
mang
hận
thù
hoặc
ít
nhất
là
hiểu
lầm
cũng
từ
cuộc
chiến.
Thế
nào
đi
nữa
-
thương
hay
ghét
-
ta
cũng
không
muốn
bị
vẽ
bởi
cây
cọ
chỉ
có
một
màu
chiến
tranh.
Thêm
nữa,
thế
hệ
thứ
hai
của
người
Việt
ở
hải
ngoại
nay
đã
trưởng
thành:
Một
số
nhỏ
còn
viết,
nói
được
tiếng
Việt
khá
sõi
nhưng
đa
số
chỉ
có
thể
nói
chứ
không
biết
đọc
viết
và
một
số
không
nhỏ
không
nghe
hoặc
không
nói
được
gì.
Một
điểm
chung
là
hầu
như
tất
cả
đều
chỉ
hiểu
sơ
sài
về
văn
hoá
Việt.
Một
số
em,
cháu
có
phương
tiện
hoặc
người
thân
còn
ở
Việt
Nam
nên
đã
về
nước
để
học
hỏi
và
biết
về
văn
hoá
Việt.
Đa
số
còn
đang
vật
lộn
với
sách
vở
do
người
ngoại
quốc
viết
để
tìm
hiểu
về
quá
khứ
của
chính
họ.
Đây
là
thời
điểm
và
cơ
hội
tốt
cho
Nhà
nước
Việt
Nam
vừa
giúp
thế
hệ
trẻ
này
tìm
“về
nguồn”,
phát
huy
được
văn
hoá
Việt.
Giáo
sư
Vượng
đề
xuất
riêng
ở
nước
Mỹ,
nơi
có
gần
hai
triệu
dân
gốc
Việt,
Việt
Nam
nên
lập
khoảng
4-6
phòng
văn
hoá
trong
vòng
10
năm
tới,
với
khá
đủ
dịch
vụ:
phòng
đọc
sách,
báo
cho
những
ai
muốn
theo
dõi
tình
hình
Việt
Nam;
các
lớp
Việt
ngữ
cho
những
ai
muốn
trau
dồi
tiếng
Việt;
các
buổi
trình
diễn
hoặc
hội
thảo
về
văn
hoá
Việt,
giới
thiệu
các
tài
năng
của
người
Việt
trong
và
ngoài
nước.
Về
tổ
chức,
các
phòng
văn
hoá
này
trực
thuộc
Chính
phủ
Việt
Nam,
nhân
viên
phải
có
đủ
khả
năng
“đem
chuông
đi
đánh
xứ
người”
và
do
Chính
phủ
tài
trợ
tương
xứng.
Trong
thế
kỷ
vừa
qua,
Việt
Nam
thắng
lợi
nhiều
về
quân
sự,
đạt
nhiều
kết
quả
về
ngoại
giao
và
đang
tiến
hành
chuyển
mình
nhanh
về
kinh
tế.
Đã
đến
lúc
chúng
ta
không
thể
coi
nhẹ
mặt
trận
văn
hoá
mà
phải
đặt
trọng
tâm
ngang
hàng
với
ba
lĩnh
vực
kia.
Về
mục
tiêu,
tưởng
không
có
gì
quan
trọng
hơn
việc
giúp
người
Việt,
thế
hệ
thứ
hai,
thứ
ba
trở
đi
có
phương
tiện
học
tiếng
Việt,
trau
dồi
văn
hoá
Việt
và
từ
đó,
họ
sẽ
là
những
sứ
giả
tiếp
tay
cho
công
cuộc
bang
giao
của
Việt
Nam
với
thế
giới
bên
ngoài.
Bên
cạnh
đó,
các
phòng
văn
hoá
cũng
là
phương
tiện
phát
huy
văn
hóa
Việt
với
những
người
ngoài
cộng
đồng
ta.
Về
cộng
tác
giữa
người
Việt
trong
và
ngoài
nước,
các
phòng
văn
hoá
này
sẽ
là
những
cơ
cấu
thuận
lợi
để
phát
huy
các
liên
hệ
giữa
những
cá
nhân,
tổ
chức,
những
chương
trình
hữu
ích
cho
cả
hai
phía.
Và
nhất
là
giữ
được
cá
tính
của
người
Việt
trong
những
thế
hệ
mai
sau.
Giáo
sư
Vũ
Đức
Vượng
tin
tưởng
ta
đã
thấy
rất
nhiều
những
tổ
chức
do
người
gốc
Việt
đề
xướng
để
tự
nguyện
giúp
cho
đồng
bào
bên
nhà;
nhiều
người
trong
giới
trí
thức
và
giới
công
nghệ
trao
đổi
với
các
đối
tác
trong
nước.
Đây
là
cơ
hội
tốt
để
Chính
phủ
Việt
Nam
tiếp
tay
vào
việc
phát
huy
các
“đầu
cầu”
đã
được
người
Việt
ở
nước
ngoài
tạo
lập.