Mộc
Chợ
Thủ
Nếu
thợ
mộc
Gò
Công
có
ngón
nghề
tủ
thờ
tứ
trụ,
lục
trụ,
nhị
thập
tứ
trụ…
thì
An
Giang
có
làng
mộc
Chợ
Thủ
nổi
tiếng
lâu
đời
với
các
sản
phẩm:
tranh
kiếng,
sơn
thủy,
tủ,
bàn
ghế,
giường...
Nếu
thợ
mộc
Gò
Công
có
ngón
nghề
tủ
thờ
tứ
trụ,
lục
trụ,
nhị
thập
tứ
trụ…
thì
An
Giang
có
làng
mộc
Chợ
Thủ
nổi
tiếng
lâu
đời
với
các
sản
phẩm:
tranh
kiếng,
sơn
thủy,
tủ,
bàn
ghế,
giường...
Một
khúc
gỗ
vô
tri
sau
khi
qua
tay
các
nghệ
nhân
ở
làng
nghề
này
như
có
sức
sống.
Các
bậc
lão
niên
nói
rằng,
khoảng
1890
làn
sóng
di
dân
về
miền
Tây
đã
có
một
nhóm
người
đem
theo
nghề
mộc
chạm
trổ
đến
định
cư
ở
khu
vực
Chợ
Thủ.
Nghề
chạm
trổ,
điêu
khắc
gỗ
phất
lên
từ
cộng
đồng
này.
“Nhất
nghệ
tinh”
Nép
mình
bên
chân
cầu
Trà
Thôn
là
xưởng
gỗ
của
ông
Tư
Chia
(ông
Hồ
Xuân
Lai
–
84
tuổi,
nghệ
nhân
cao
tuổi
nhất
của
làng
nghề).
Tuổi
cao
khiến
ông
không
còn
đủ
tin
cậy
để
kiểm
tra
chất
lượng
từng
sản
phẩm,
mà
phải
nhờ
đến
cảm
giác
của
đôi
tay.
Bên
cặp
“song
long”
đang
đặt
giữa
nhà,
lần
mười
ngón
run
run
theo
những
đường
nét
còn
dang
dở…
ông
Tư
chậm
rải
nhận
xét
từng
li
từng
tí.
Ông
Hồ
Xuân
Lai,
nghệ
nhân
cao
tuổi
của
làng
10
tuổi
ông
theo
học
nghề
mộc
cũng
tại
Long
Điền
A,
huyện
Chợ
Mới
này.
Thuở
ấy,
nghề
mộc
ở
đây
đắc
dụng
nên
thợ
qui
tụ
ngày
một
nhiều
và
người
theo
học
cũng
rất
đông.
Vậy
nhưng,
người
học
chạm
trổ
–
nghề
vốn
đòi
hỏi
nhiều
ở
tính
tỉ
mỉ
và
sự
kiên
nhẫn
thì
đếm
trên
đầu
ngón
tay.
Riêng
ông
Tư,
dù
“bái
sư”,
“thọ
giáo”
như
bao
đồng
môn
khác
nhưng
lại
rất
đam
mê
nghiệp
chạm
trổ.
Thập
niên
50
–
60,
chùa
chiền
miếu
mạo
xây
dựng
nhiều
nơi,
nghề
điêu
khắc
chạm
trổ
đắc
dụng
lắm!
Ký
ức
xa
xôi
với
bao
vui
buồn
lẫn
lộn
lại
hiện
về,
ông
Tư
chậm
rải:
Hồi
đó
mấy
thứ
này
thường
chỉ
được
dùng
trang
trí
nơi
các
công
trình
thờ
tự,
vậy
mà
làm
vẫn
không
kịp.
Rồi
tới
lúc
chiến
tranh
ly
lọan
mấy
ai
còn
để
ý
tới…
theo
thời
gian
nghề
chạm
trổ
bị
mai
một
dần.”
Các
bậc
tiền
bối
lần
lượt
theo
ông
bà
mang
theo
cái
nghiệp
hiếm
hoi
ấy.
Nghề
mà
ông
Tư
cố
công
theo
đuổi
đứng
trước
nguy
cơ
thất
truyền.
Đượm
buồn
qua
ánh
mắt,
ông
Tư
dịu
giọng:
“Đã
có
2
Huy
chương
vàng
được
trao
cho
Xí
nghiệp
đóng
tàu
An
Hòa
–
An
Giang
trong
cuộc
thi
mẫu
tàu
ở
phía
Bắc
hồi
đầu
thập
niên
80.
Từ
đó,
khi
nhắc
đến
Xí
nghiệp
An
Hòa
người
ta
hình
dung
ngay
những
đường
nét
chạm
trổ
khắc
họa
trên
nền
gỗ
đính
lên
thân
và
mạn
tàu.
Vậy
mà
sau
đó,
chuyện
áo
cơm
cũng
khiến
người
ta
không
còn
đủ
thảnh
thơi
để
tìm
hiểu
thêm…”
Là
tác
giả
của
những
tác
phẩm
góp
phần
làm
nên
2
chiếc
huy
chương
đó
nhưng
ông
Tư
chưa
vui
lắm
vì
nghề
này
vẫn
thiếu
việc
làm.
Xưởng
mộc
bên
dốc
cầu
Trà
Thôn
của
ông
đành
đóng
cửa.
Rồi
để
nuôi
dưỡng
cái
nghiệp
đang
dần
tàn,
ông
Tư
phải
xách
đồ
nghề,
dẫn
theo
cả
4
cô
con
gái
lặn
lội
đi
khắp
vùng
dọc
biên
giới
tìm
công
ăn
việc
làm.
Còn
có
một
gia
nghiệp
Mãi
đến
lúc
áo
cơm
không
còn
là
gánh
nặng
(1990
–
2000),
những
gì
thuộc
về
nghệ
thuật
mới
phục
hồi.
Những
năm
đầu
thập
niên
90,
ông
quay
về
Chợ
Thủ
mở
lại
xưởng
mộc.
Chợ
Thủ
một
thời
lừng
lẫy
tiếng
tăm,
lúc
này
chỉ
còn
một
mình
ông
Tư
là
người
theo
nghề.
Trong
căn
hộ
chưa
đầy
100
m2
của
gia
đình
ông
Tư,
2/3
diện
tích
dành
cho
2
chiếc
bàn
mộc
dài
mới
đủ
chỗ
cho
hơn
chục
lao
động
vừa
thợ
vừa
học
việc.
Bây
giờ,
điều
làm
ông
Tư
vui
nhất
là
anh
Hồ
Văn
Phước-
con
trai
ông
–
đã
sẵn
sàng
nối
nghiệp.
Niềm
vui
nhân
thêm
khi
4
cô
con
gái
xa
xứ,
người
nào
cũng
giữ
nghề
chạm
trỗ,
có
cơ
sở
riêng,
gia
nghiệp
được
bảo
tồn.
Mỹ
nghệ
gỗ
“lên
hương”
Tuổi
vừa
quá
30
nhưng
có
phân
nửa
thời
gian
theo
nghiệp
cha,
anh
Hồ
Văn
Phước
nay
là
một
nghệ
nhân
trẻ.
Qua
những
chuyến
tham
quan
và
tiếp
thu
nghệ
thuật
tranh
gỗ
phố
cổ
Hội
An,
gỗ
mỹ
nghệ
xuất
khẩu
Bắc
Ninh…
anh
Phước
cho
rằng:
Nếu
tác
phẩm
tứ
quý
(mai,
lan,
cúc,
trúc)
đòi
hỏi
sự
sống
động
trong
những
đường
nét
chân
truyền,
thì
người
thể
hiện
tứ
linh
(long,
lân,
qui,
phụng)
phải
có
trí
“siêu
tưởng”.
Anh
Phước
giới
thiệu
từng
tác
phẩm:
“Chất
lượng
mỹ
thuật
phải
được
xác
định
ngay
từ
công
đọan
đầu:
Vẽ,
tạo
vóc
(phá
to)
–
đây
là
bước
quyết
định
hơn
cả.
Phần
việc
này
chỉ
có
thợ
cao
tay
nghề
mới
làm
được.
Thợ
vài
tuổi
nghề
có
thể
tham
gia
làm
nhẵn
bề
mặt,
điểm:
Tách
từng
chi
tiết
nhỏ
và
nhẹ
nhàng
hơn
cả
là
đánh
bóng;
sơn
thì
thợ
đang
quá
trình
học
nghề
cũng
làm
được.”
Nói
thì
đơn
giản
vậy,
nhưng
cả
10
thợ
đang
làm
việc
tại
xưởng
đều
có
từ
10
năm
tuổi
nghề
trở
lên.
Anh
Hai
Long
–
tay
thợ
khá
thạo
nghề,
bộc
bạch:
Chủ
bao
cơm
nước,
mức
lương
từ
50.000
đ/thợ/ngày
trở
lên.
Cuộc
sống
nông
thôn
với
mức
thu
nhập
ổn
định
này
thì
người
làm
công
nhật
theo
thời
vụ
có
mơ
cũng
không
thấy!
Chạm
trổ
Tạo
màu
Mấy
năm
gần
đây,
các
sản
phẩm
điêu
khắc,
chạm
trổ
trên
chất
liệu
gỗ
được
yêu
chuộng
hơn,
sử
dụng
nhiều
trong
các
công
trình
kiến
trúc:
biệt
thự,
tư
dinh,
công
sở…
nghề
này
có
cơ
hội
để
phát
triển.
Trong
khi
đó,
một
thợ
giỏi
phải
mất
hơn
nửa
tuần
trăng
miệt
mài
với
vài
chục
cỡ,
lọai
đục
trên
chiếc
bàn
chuyên
dùng,
thì
2
khúc
gỗ
(kích
thước:
0,2m
x
0,4m
x
1,1m)
trị
giá
trên
5
triệu
đồng
mới
có
thể
“hóa
long”.
Giá
thành
sản
phẩm
tăng
thêm
không
quá
3
triệu
đồng,
nhưng
giá
trị
nghệ
thuật
thì
khó
tính
được
khi
nó
uốn
lượn
theo
các
cầu
thang
biệt
thự.
Đơn
giản
như
1
miếng
trám
cửa
kích
thước
0,05m
x
0,65m
x
0,75m
mang
hình
ảnh
mẫu
đơn,
tuần
lộc,
liễu
mã
hay
tứ
quý…trị
giá
1,5
triệu
đồng,
một
thợ
giỏi
cũng
phải
mất
vài
ngày
thể
hiện.
Hiện
nay,
cả
làng
mộc
Chợ
Thủ
có
khoảng
2.300
lao
động
chuyên
nghề
mộc,
chạm
trổ,
tiện,
sơn,
cưa...
chiếm
gần
60%
dân
số
vùng
này.
Bên
cạnh
đó
còn
có
gần
1.300
lao
động
gián
tiếp,
thu
nhập
bình
quân
40.000đ/ngày.
Sản
phẩm
bây
giờ
cũng
đa
dạng
hơn.
Ngoài
những
sản
phẩm
cổ
truyền
còn
có
cả
những
tác
phẩm
mỹ
thuật
gỗ
có
nhiều
khả
năng
tham
gia
thị
trường
quà
lưu
niệm
phục
vụ
du
khách.