Là
một
trong
những
người
tham
gia
trong
việc
xây
dựng
Bộ
tiêu
chí
hàng
Việt
Nam
chất
lượng
cao
–
Chuẩn
hội
nhập
(HVNCLC
–
CHN),
bà
Nguyễn
Kim
Thanh,
chuyên
gia
tiêu
chuẩn
chất
lượng
thực
phẩm
quốc
tế
mới
kết
thúc
khóa
học
tại
Hà
Lan.
Về
nước
làm
đề
tài
cuối
khóa
học,
bà
có
những
trao
đổi
về
quyết
tâm
đưa
Bộ
tiêu
chí
HVNCLC
–
CNH
ra
thế
giới.
Học
khóa
này
do
ai
tài
trợ,
nội
dung
bà
chọn
là
gì?
Bà
Nguyễn
Kim
Thanh,
chuyên
gia
tiêu
chuẩn
chất
lượng
thực
phẩm
quốc
tế
Tôi
học
chương
trình
này
theo
học
bổng
Nuffic
của
Chính
phủ
Hà
Lan,
họ
cấp
cho
các
nước
đang
phát
triển,
trong
đó
có
nhiều
nước
châu
Phi.
Những
ưu
tiên
của
chương
trình
học
này
gồm
vấn
đề
an
ninh
lương
thực,
bình
đẳng
giới,
quản
lý
chuỗi
giá
trị
nông
sản.
Nuffic
có
những
ưu
tiên
cho
khối
tư
nhân,
nhất
là
phụ
nữ.
Để
có
được
học
bổng
này,
người
tham
dự
phải
có
một
kế
hoạch,như
tại
sao
lại
chọn
ngành
này,
những
kiến
thức
học
về
được
sử
dụng
như
nào
trong
phát
triển
công
việc
của
mình
trong
tương
lai,
đóng
góp
cho
sự
phát
triển
xã
hội…
Tôi
học
về
quản
lý
chuỗi
giá
trị
nông
sản,
với
chuyên
ngành
là
chuỗi
chăn
nuôi.
Thời
gian
học
là
12
tháng
và
có
2
tháng
làm
đề
tài,
tôi
chọn
Việt
Nam
với
đề
tài
là
chuỗi
chăn
nuôi
gà.
Trước
nay
làm
về
các
tiêu
chuẩn
của
quốc
tế,
nhưng
đánh
giá
toàn
bộ
về
chuỗi
chăn
nuôi
gà
ở
Việt
Nam
mình
đang
ở
đâu
trong
thế
giới
thì
tôi
thấy
còn
thiếu.
Tôi
thấy
rằng,
Bộ
tiêu
chuẩn
HVNCLC
–
Chuẩn
hội
nhập,
xuất
phát
ban
đầu
là
muốn
có
một
cơ
sở
kỹ
thuật
cho
việc
bình
chọn
HVNCLC.
Nhưng
với
tôi,
điều
này
chưa
đủ
thỏa
mãn,
bởi
nó
mới
chỉ
là
thừa
nhận,
nhìn
nhận
ở
trong
nước.
Còn
nhiều
thị
trường
quốc
tế
mà
mình
nhắm
đến
họ
lại
chưa
biết
đến
mình.
Bà
Kim
Thanh
từng
dẫn
các
học
viên
trong
khóa
học
GLOBALG.A.P
do
Dự
án
HVNCLC
–
Chuẩn
hội
nhập
tổ
chức
tham
quan
trại
gà
Khánh
Sơn
(Cần
Giờ)
Thành
ra,
chuyện
đi
học
có
2
cái
lợi.
Thứ
nhất,
bổ
sung
kiến
thức
mình
làm
cho
Bộ
tiêu
chuẩn,
để
không
chỉ
hoạt
động
được
trong
nước,
mà
sẽ
đối
tác
được
với
những
tổ
chức
quốc
tế.
Tức
là
làm
trong
nước
trước
nhưng
hướng
đến
thị
trường
xuất
khẩu.
Cái
này
đòi
hỏi
phải
có
một
nền
tảng
vững
chắc,
như
việc
làm
móng
nhà
trước
khi
xây.
Thứ
hai,
mình
muốn
xác
lập
mối
quan
hệ
với
các
đối
tác
quốc
tế
đâu
phải
dễ,
tốn
nhiều
chi
phí.
Nên
việc
mình
sang
đó
học,
có
nhiều
thời
gian
đi
gặp
gỡ,
tham
quan
những
mô
hình
bên
châu
Âu
để
từ
đó
có
những
kết
nối
để
đưa
Bộ
tiêu
chuẩn
này
ra
thế
giới.
Khi
chia
sẻ
tại
Việt
Nam
có
một
đơn
vị
tư
nhân
đưa
ra
Bộ
tiêu
chuẩn
giúp
doanh
nghiệp
thực
phẩm
xuất
khẩu,
những
nhà
chuyên
môn
ở
châu
Âu
họ
phản
ứng
sao?
Bộ
tiêu
chí
HVNCLC
–
Chuẩn
hội
nhập
ký
kết
thừa
nhận
lẫn
nhau
với
tổ
chức
tiêu
chuẩn
quốc
tế
GMP+
(về
thức
ăn
chăn
nuôi,
điều
kiện
cơ
bản
cho
thực
phẩm
thịt
đạt
hữu
cơ)
Đề
tài
tôi
làm
là
cho
nguyên
một
chuỗi
gia
cầm
từ
đầu
đến
cuối,
chứ
không
phải
riêng
về
từng
công
đoạn
như,
chăn
nuôi,
giết
mổ,
vận
chuyển,
phân
phối...
để
khi
mình
đi
đàm
phán
với
những
nhà
bán
lẻ
thì
sẽ
thuyết
phục
hơn.
Nhưng
khi
trình
bày
đề
tài
này,
ông
thầy
hướng
dẫn
hỏi
tôi
rằng,
vậy
hiện
tại
Việt
Nam
có
hệ
thống
quản
lý
không?
Tôi
nói
có
hệ
thống
quản
lý
của
khối
công.
Ông
hỏi
ngược
lại,
vậy
tại
sao
lại
cho
ra
đời
Bộ
tiêu
chí
này?
Tôi
nói,
theo
báo
cáo
của
ngân
hàng
thế
giới
tháng
3/2017,
dù
Việt
Nam
có
hệ
thống
quản
lý
chất
lượng
được
đánh
giá
là
hiện
đại,
nhưng
nó
vẫn
không
thành
công
trong
việc
tạo
ra
sản
phẩm
thực
phẩm
an
toàn
ở
đầu
cuối.
Nên
rõ
ràng
là
nó
có
vấn
đề.
Việc
ra
đời
Bộ
tiêu
chí,
thứ
nhất
là
kế
thừa
từ
quá
trình
mà
Hội
DN
HVNCLC
hoạt
động
với
nhà
sản
xuất,
doanh
nghiệp,
người
tiêu
dùng.
Điều
này
đi
tới
nhu
cầu
cần
có
một
cơ
sở
kỹ
thuật
cho
việc
bình
chọn
HVNCLC.
Nghĩa
là
xuất
phát
từ
yêu
cầu
của
khối
tư
nhân.
Nhưng
hội
đồng
nói
cái
này
chưa
đủ
thuyết
phục.
Và
mình
phải
chỉ
ra
được
vấn
đề
của
hệ
thống
quản
lý
công
đang
ở
chỗ
nào.
Và
khi
Bộ
tiêu
chuẩn
mình
ra
đời
nó
giải
quyết
được
vấn
đề
gì…
Nên
tôi
chuyển
hướng
đề
tài
làm
về
toàn
bộ
chuỗi
giá
trị
gà
ở
Việt
đang
quản
lý
như
nào?
Tại
sao
không
thành
công
trong
việc
tạo
ra
sản
phẩm
thịt
an
toàn…
Đề
tài
của
tôi
giải
quyết
2
vấn
đề,
thứ
nhất
là
chỉ
ra
được
những
bất
cập
của
hệ
thống
quản
lý
hiện
tại
do
khối
công
sử
dụng
để
quản
lý
an
toàn
thực
phẩm
theo
chuỗi;
thứ
hai
là
đưa
ra
được
giải
pháp,
giải
pháp
này
tôi
kỳ
vọng
sẽ
giải
quyết
được
vấn
đề
là
tạo
ra
được
sản
phẩm
cuối
an
toàn
cho
người
tiêu
dùng.
Và
nó
phải
tương
thích
với
hệ
thống
ATTP
mà
cả
thế
giới
đang
áp
dụng,
được
thừa
nhận
trong
mậu
dịch
quốc
tế.
Cái
cuối
cùng
của
Bộ
tiêu
chuẩn
là
phải
được
thị
trường
chấp
nhận,
được
người
tiêu
dùng
tin
tưởng.
Nên
những
nghiên
cứu
của
tôi
nó
sẽ
mang
tính
thuyết
phục
thị
trường.
Theo
bà
trong
chuỗi
giá
trị
nông
sản
Việt
Nam
mà
bà
làm
nó
có
những
bất
ổn
gì?
Tôi
nghĩ,
chúng
ta
chưa
có
thói
quen
làm
đúng.
Cụ
thể
như
vấn
đề
lạm
dụng
thuốc
trừ
sâu.
Trước
kia,
ở
châu
Âu
cũng
có
tình
trạng
này.
Họ
nói
màu
xanh
mà
họ
thấy
là
màu
xanh
chết
chóc,
màu
xanh
của
sa
mạc.
Chứ
không
phải
màu
xanh
bằng
sự
phì
nhiêu
của
đất.
Nên
trong
gần
10
năm
trở
lại
đây,châu
Âu
họ
có
phong
trào,
gọi
là
nông
–
lâm
–
nghiệp.
Nghĩa
là
người
ta
trồng
nhiều
loại
cây
với
nhau,
họ
kết
hợp
chăn
nuôi,
để
tạo
ra
những
sự
tương
thích
nhằm
hạn
chế
mặt
tiêu
cực
của
nhau.
Tôi
nghĩ,
nông
–
lâm
–
nghiệp
thì
tại
Việt
Nam
nó
là
văn
hóa
có
từ
lâu.
Nên
chuyện
làm
đúng,
có
thể
là
mình
trở
về
cách
làm
trước
kia,
là
sử
dụng
những
cây,
con,
thứ
mà
ông
bà
mình
làm
ngày
xưa…
Tôi
nghĩ
đây
là
một
xu
hướng
thích
hợp
để
tạo
ra
những
sản
phẩm
an
toàn.
Mà
cái
này
thì
người
sản
xuất
nhỏ
cũng
không
bị
bỏ
lại
bên
lề
công
cuộc
tạo
ra
nguồn
thực
phẩm
an
toàn
cho
xã
hội.
Đến
nay,
Hội
DN
HVNCLC,
Dự
án
Bộ
tiêu
chí
HVNCLC
–
CHN
đã
ký:
- Biên
bản
ghi
nhớ
với
Ban
An
toàn
Thực
phẩm
Tp.
HCM
- Bản
ghi
nhớ
với
tổ
chức
GMP+
International
cho
xây
dựng
năng
lực
sản
xuất
thức
ăn
chăn
nuôi
an
toàn.
- Đối
tác
với
GLOBALG.A.P
cho
sản
xuất
trái
cây,
rau
màu,
thịt
(gia
cầm,
heo)
an
toàn
và
có
trách
nhiệm. |
Xin
cám
ơn
bà!
Trần
Quỳnh
(thực
hiện)