95%
các
doanh
nghiệp
Việt
hiện
nay
còn
tồn
tại
được
là
do
nỗ
lực
bằng
cách
này
hay
cách
khác
để
duy
trì
thị
phần.
Mới
đây,
công
ty
nghiên
cứu
thị
trường
Kantar
Worldpanel
công
bố
top
10
thương
hiệu
doanh
nghiệp
(DN)
ngành
hàng
tiêu
dùng
nhanh
(FMCG)
được
mua
nhiều
nhất
ở
thành
thị
và
nông
thôn
năm
2014
(tại
Việt
Nam).
Kết
quả
cho
thấy
trong
ngành
hàng
chăm
sóc
sức
khỏe
và
sắc
đẹp,
các
DN
đa
quốc
gia
chiếm
ưu
thế.
Riêng
ngành
hàng
thực
phẩm
và
đồ
uống
chỉ
có
hai
DN
Việt
dẫn
đầu.
Để
tồn
tại
bên
cạnh
những
DN
đa
quốc
gia
là
thách
thức
không
nhỏ
đối
với
DN
Việt.
DN
Việt
đuối
sức
Công
thức
mà
các
DN
đa
quốc
gia
khi
thâm
nhập
bất
cứ
thị
trường
nào
là
có
sản
phẩm
tốt,
xây
dựng
hệ
thống
phân
phối
(hoặc
mua
lại
các
DN
đã
có
sẵn
hệ
thống
phân
phối),
chịu
lỗ
nhiều
năm
để
đầu
tư
cho
tiếp
thị
và
quảng
cáo…
Theo
ông
Bùi
Đức
Huệ
-
một
DN
trong
ngành
hàng
tiêu
dùng
nhanh
chia
sẻ
thị
trường
FMCG
có
rất
ít
DN
Việt.
Ngoại
trừ
các
DN
lớn
như
Unilever
hay
P&G,
các
DN
nước
ngoài
đều
có
“chân”
khi
liên
doanh
với
DN
Việt.
Qua
quá
trình
phát
triển,
DN
Việt
không
chịu
được
sức
ép
tài
chính,
sức
ép
đầu
tư
dần
dần
bị
DN
ngoại
chi
phối
và
phần
lớn
phải
bán
lại
cho
các
DN
ngoại.
Đây
là
câu
chuyện
không
còn
mới
và
cũng
là
bức
tranh
chung
của
thị
trường
FMCG.
Ở
các
quầy,
kệ
tại
siêu
thị
hay
ở
chợ
toàn
trưng
bày
sản
phẩm
của
các
DN
ngoại
còn
sản
phẩm
của
DN
Việt
rất
ít.
“Những
chai
nước
mắm
truyền
thống
có
được
nằm
ở
vị
trí
đẹp
trong
siêu
thị
không?
Còn
nếu
ra
chợ,
có
hỏi
tới
người
bán
mới
đem
ra”.
Đó
là
tâm
sự
của
một
DN
trong
ngành
nước
mắm.
Các
DN
sản
xuất
nước
mắm
truyền
thống
không
đủ
tài
chính
để
làm
quảng
cáo
hay
chi
phí
đến
vài
trăm
triệu
đồng
để
trưng
bày
sản
phẩm
của
mình
ở
vị
trí
đẹp
mắt,
đắt
tiền
ở
chợ,
siêu
thị
được.
Trong
khi
đó
chi
phí
để
quảng
bá
mà
DN
ngoại
bỏ
ra
là
bằng
cả
doanh
thu
của
DN
sản
xuất
nước
mắm
truyền
thống.
Bên
cạnh
đó
việc
người
tiêu
dùng
(NTD)
ít
phân
biệt
được
nước
mắm
truyền
thống
hay
công
nghiệp
khiến
các
DN
Việt
càng
khó
khăn
trong
cuộc
cạnh
tranh
này.
Ông
Nguyễn
Ngọc
An,
Phó
Tổng
Giám
đốc
Công
ty
Vissan,
chia
sẻ
cách
đây
vài
năm,
Vissan
một
mình
một
chợ
trong
ngành
chế
biến
thực
phẩm
nhưng
gần
đây
thị
trường
xuất
hiện
nhiều
DN,
trong
đó
có
DN
nước
ngoài.
Họ
đã
sản
xuất
ra
các
sản
phẩm
tương
đồng
với
mình
nên
chuyện
cạnh
tranh
càng
khốc
liệt
hơn.
Cấu
trúc
lại
thị
trường
Ông
Lương
Vạn
Vinh,
Tổng
Giám
đốc
Công
ty
Cổ
phần
Hóa
mỹ
phẩm
Mỹ
Hảo,
cho
biết
DN
đã
cố
gắng
trong
việc
đổi
mới
đầu
tư
công
nghệ
dây
chuyền
sản
xuất,
mở
rộng
quy
mô
lên
đến
50.000
m
2 để
tăng
sản
lượng,
nghiên
cứu
các
sản
phẩm
dầu
gội
chất
lượng,
giá
cả
hợp
lý.
Ông
Vinh
kể,
không
đủ
chi
phí
lớn
để
quảng
bá
truyền
thông,
bản
thân
ông
thường
xuyên
mang
các
sản
phẩm
của
công
ty
mình
rong
ruổi
đến
các
vùng
nông
thôn,
các
tỉnh,
thành
trên
khắp
cả
nước.
Thương
hiệu
của
Mỹ
Hảo
được
quảng
bá
ở
các
đài
địa
phương
như
Vũng
Tàu,
Đồng
Nai…
giúp
NTD
nhớ
đến
DN.
“Chúng
tôi
cố
gắng
làm,
bằng
giá
cả
thực
sự,
lao
động
thực
sự,
chất
lượng
thực
sự,
luôn
đổi
mới
công
nghệ,
đưa
ra
nhiều
sản
phẩm
giá
thành
tốt.
Quan
trọng
là
phải
bán
được
sản
phẩm
thì
mới
hiệu
quả”
-
ông
Vinh
chia
sẻ.
Nhờ
những
chiến
lược
đó
nên
có
những
thị
trường
hàng
đa
quốc
gia
70%,
có
thị
trường
sản
phẩm
của
công
ty
chiếm
60%-70%…
Công
ty
Vissan
cũng
cho
biết
mặc
dù
có
nhiều
đối
thủ
nhưng
Vissan
luôn
tạo
ra
các
sản
phẩm
chứa
yếu
tố
độc
đáo
để
thu
hút
NTD.
Chẳng
hạn
cho
thêm
các
hương
vị
khác
nhau
hay
thêm
các
yếu
tố
vi
lượng
như
DHA...
vào
xúc
xích
đáp
ứng
nhu
cầu
của
NTD.
Ngoài
ra,
việc
cam
kết
chất
lượng
hàng
đầu,
giá
cả
luôn
cạnh
tranh
là
các
yếu
tố
quan
trọng
mà
công
ty
hướng
tới.
Làm
sao
mang
sản
phẩm
đến
tay
NTD
ở
tất
cả
ngóc
ngách
đòi
hỏi
DN
phải
cấu
trúc
lại
toàn
bộ
thị
trường.
Ngoài
phát
triển
song
song
ở
cả
hai
kênh
truyền
thống
và
hiện
đại,
DN
đã
xây
dựng
lại
hệ
thống
phân
phối,
tạo
mạng
lưới
bán
lẻ
trên
khắp
cả
nước.
Vì
vậy
ở
những
vùng
sâu,
vùng
xa
nhân
viên
bán
hàng
có
mặt
ở
từng
điểm
bán…
Nhờ
đó
thị
phần
của
ngành
chế
biến
thực
phẩm
của
Vissan
chiếm
30%-60%.
Với
vị
thế
của
DN
lớn,
Trung
Nguyên
có
chiến
lược
cạnh
tranh
trực
diện:
Định
vị
thương
hiệu
Trung
Nguyên
là
cà
phê
số
một
ở
Việt
Nam,
hệ
thống
phân
phối
ở
khắp
nơi,
giá
cả
cạnh
tranh
đã
giúp
sản
phẩm
G7
của
Trung
Nguyên
liên
tiếp
trong
ba
năm
từ
2011
đến
2013
giữ
vị
trí
số
một
khi
chiếm
40%
thị
phần.
Theo
Tú
Uyên
(Pháp
Luật
TPHCM)
Đầu
tư
vào
những
thị
trường
lợi
thế
Để
phát
triển,
tồn
tại
bên
cạnh
các
DN
đa
quốc
gia,
DN
Việt
phải
nâng
cao
năng
lực
quản
trị
chiến
lược,
quan
tâm
đến
thị
trường
và
kinh
tế
vĩ
mô.
Bên
cạnh
là
nâng
cao
khả
năng
sáng
tạo
trong
sản
phẩm
và
dịch
vụ
ở
mức
cao
nhất
nhằm
đáp
ứng
các
yêu
cầu
đặc
thù
của
thị
trường
địa
phương. Đồng
thời
DN
nên
đầu
tư
theo
quy
mô
phù
hợp,
không
chạy
theo
những
DN
lớn,
học
DN
lớn
nhưng
không
sao
chép
một
chiều.
Ngoài
ra,
DN
cũng
nên
cân
nhắc
đầu
tư
trong
ngắn
hạn,
trung
hạn
hay
dài
hạn…
ở
những
thị
trường
mà
DN
nhỏ
có
nhiều
lợi
thế
hơn
DN
lớn,
DN
ngoại.
Ông
LÝ
TRƯỜNG
CHIẾN, chuyên
gia
tư
vấn
về
tái
cấu
trúc,
quản
trị
chiến
lược
và
phát
triển
nguồn
lực
cho
các
DN
Tập
trung
vào
ngành
kinh
doanh
cốt
lõi
Những
DN
Việt
vừa
và
nhỏ
có
thể
học
tập
từ
chính
những
thành
công
của
những
DN
Việt
lớn
trong
việc
cạnh
tranh
với
các
ông
lớn
nước
ngoài.
Cụ
thể
như
cách
thức
phát
triển
của
Vinamilk.
DN
này
tập
trung
vào
ngành
kinh
doanh
cốt
lõi
là
sản
xuất
sữa,
dung
hòa
giữa
việc
phát
triển
sản
phẩm
mới,
xây
dựng
hệ
thống
bán
lẻ
và
chiến
lược
marketing
bài
bản.
Chuyên
gia Hoàng
Tùng
Ở
Việt
Nam,
bảng
xếp
hạng
các
DN
hàng
đầu
có
thương
hiệu
được
chọn
mua
nhiều
nhất
thuộc
về
các
tập
đoàn
toàn
cầu.
Tuy
nhiên,
các
DN
thực
phẩm
và
đồ
uống
trong
nước
vẫn
xuất
sắc
giành
được
hai
ghế
trong
số
ba
vị
trí
dẫn
đầu.
Điều
này
cho
thấy
các
DN
này
đã
nhạy
bén
và
linh
hoạt
với
NTD
trong
nước.
Ông
David
Anjoubault, Tổng
Giám
đốc
Kantar
Worldpanel
Việt
Nam |