Ngày
11
–
12.08.2016,
tại
TP
cần
Thơ,
Bộ
nông
nghiệp
và
phát
triển
nông
thôn,
Viện
khoa
học
nông
nghiệp
Việt
Nam
phối
hợp
với
UBND
TPCT
tổ
chức
hội
thảo
quốc
gia
về
khoa
học
cây
trồng
lần
thứ
2,
có
chủ
đề
“Nông
nghiệp
ứng
dụng
công
nghệ
cao
thích
ứng
với
Biến
đổi
khí
hậu”
thu
hút
nhiều
nhà
khoa
học,
chuyên
gia
đầu
ngành
trong
và
ngoài
nước.
39/160
báo
cáo
thuộc
3
tiểu
ban:
1/Di
truyền
giống
và
công
nghệ
sinh
học
(14
báo
cáo)
,
2/
Kỹ
thuật
trồng
trọt
và
bảo
vệ
thực
vật
(12
báo
cáo);
3/
Đất,
phân
bón,
môi
trường
và
hệ
thống
nông
nghiệp
(13
báo
cáo),
được
Hội
đồng
Khoa
học
công
nghệ
chọn
công
bố
tại
hội
thảo.
Hội
thảo
thu
hút
gần
1.000
đại
biểu
tham
dự
(ảnh:
Ngọc
Bích)
Bất
ngờ
từ
rau
quả
Ngay
hôm
đầu
tiên
, ông
Lê
Quốc
Doanh,
Thứ
trưởng
Bộ
NN&PTNT,
cho
biết
điều
bất
ngờ
từ
rau
quả:
Thời
gian
qua
ngành
rau
quả
tuy
nhận
được
rất
ít
sự
quan
tâm
đầu
tư,
nhưng
kết
quả
xuất
khẩu
lại
hết
sức
ấn
tượng
và
liên
tục
tăng
trưởng.
Năm
2013,
xuất
khẩu
rau
quả
chỉ
đạt
900
triệu
USD.
Năm
2014,
đã
đạt
1,47
tỷ
USD
và
trong
năm
2015
đạt
1,85
tỷ
USD
Mỹ.
Tính
đến
hết
tháng
7/2016,
trị
giá
xuất
khẩu
rau
quả
đã
đạt
1,37
tỷ
USD.
Ông
Doanh
cho
rằng
cần
chú
trọng
nguồn
lực
nghiên
cứu,
phát
triển
nhiều
hơn
cho
lĩnh
vực
này.
Theo
ông
Doanh,
3
hạn
chế
của
ngành
nông
nghiệp
hiện
nay:
1/
Giống:
chưa
có
nhiều
loại
giống
tạo
được
lợi
thế
cạnh
tranh;
2/Kỹ
thuật:
Chi
phí
trồng
trọt
hiện
còn
quá
cao,
khiến
lợi
nhuận
nông
dân
giảm,
công
tác
đào
tạo
chỉ
chú
trọng
tới
lĩnh
vực
công
tác
học,
chưa
chú
ý
tới
hướng
tiến
bộ
kỹ
thuật,
công
nghệ
tiên
tiến;
3/Bảo
quản
chế
biến.
Dù
tỷ
trọng
đầu
tư
cho
nông
nghiệp
thấp,
chỉ
chiếm
5,8%
trong
tổng
đầu
tư
ngân
sách
(
tính
mức
trung
bình
30
năm
gần
đây)
nhưng
ngành
nông
nghiệp
đóng
góp
cho
GDP
đất
nước
khoảng
18%/năm.
Những
năm
gần
đây,
nông
nghiệp
là
lĩnh
vực
đưa
Việt
Nam
ra
với
thế
giới
sau
chiến
tranh
thông
qua
các
ngành
hàng
xuất
khẩu
chủ
lực,
hiện
tại,
lĩnh
vực
trồng
trọt
đã
đóng
góp
7
mặt
hàng
xuất
khẩu
có
giá
trị
từ
1,26
cho
đến
2,9
tỷ
USD.
Giai
đoạn
2013-2015,
Viện
Khoa
học
nông
nghiệp
Việt
Nam
có
50
giống
được
công
nhận
là
giống
chính
thức,
70
giống
được
công
nhận
sản
xuất
thử,
trong
đó
đã
chuyển
nhượng
bản
quyền
và
ủy
quyền
kinh
doanh
34
giống
cây
trồng
với
tổng
giá
trị
trên
90
tỷ
đồng
(28
giống
lúa,
8
giống
bắp)
cho
12
doanh
nghiệp.
PGS
TS
Trịnh
Khắc
Quang,
Q.
Giám
đốc
Viện
Khoa
học
nông
nghiệp
Việt
Nam
nói,
ngoài
giống,
các
quy
trình
canh
tác
cũng
được
quan
tâm
như
quy
trình
thâm
canh,
tái
canh,
cải
tạo
vườn
cây
ăn
quả,
cây
công
nghiệp.
Một
số
quy
trình
được
ứng
dụng
và
triển
khai
có
hiệu
quả:
Ghép
tạo
cây
ăn
quả,
tái
canh
cà
phê,
phòng
trừ
đốm
nâu
thanh
long,
thâm
canh
điều…
Cũng
theo
PGS
TS
Trịnh
Khắc
Quang
-
Q
Viện
trưởng
Viện
Khoa
học
Nông
nghiệp
VN
-
ảnh
HĐ
(ảnh:
Ngọc
Bích)
Cũng
theo
PGS
TS
Trịnh
Khắc
Quang,
các
ý
kiến
từ
3
tiểu
ban,
nổi
lên
4
vấn
đề
thách
thức
về
nông
nghiệp
trong
thời
gian
tới:
1/Biến
đổi
khí
hậu,
thiên
tai,
hạn
hán
xảy
ra
bất
thường,
xâm
ngập
mặn
tại
các
tỉnh
ĐBSCL
diễn
ra
nhanh,
kéo
dài
hơn;2/
Quá
trình
hội
nhập
sâu,
khi
Việt
Nam
tham
gia
các
hiệp
định
thương
mại
tự
do,
đồng
nghĩa
với
áp
lực
cạnh
tranh
về
thị
trường
đã
đặt
ra
bài
toán
về
chất
lượng,
số
lượng
cho
nông
sản;
3/Vệ
sinh
an
toàn
thực
phẩm,
môi
trường
nông
nghiệp;
4/Áp
lực
tăng
trưởng
ngành,
xuất
khẩu,
an
ninh
lương
thực.
Cần
giải
pháp
thiết
thực
Trước
thực
tế
BĐKH,
lãnh
đạo
Viện
Khoa
học
nông
nghiệp
Việt
Nam
kiến
nghị
với
Bộ
NN&PTNT,
Bộ
KHCN
và
các
Bộ,
ngành
liên
quan:
1/
Tập
trung
ưu
tiên
cho
các
nghiên
cứu
đối
với
những
ngành
hàng
xuất
khẩu,
sức
sản
xuất
lớn,
theo
hướng
xanh,
các
giống
mới,
cây
trồng
thích
ứng
BĐKH
2/
Quan
tâm
chọn
tạo
giống
chất
lượng,
tăng
sức
chống
chịu,
cải
tạo
giống
bản
địa
3/
Kỹ
thuật
canh
tác:
xác
định
giống,
kỹ
thuật
phù
hợp
với
đặc
tính
từng
địa
phương,
chú
ý
vấn
đề
nước
tưới
4/
Đẩy
mạnh
liên
kết
sản
xuất,
liên
kết
các
tác
nhân
trong
chuỗi
giá
trị,
hợp
tác
nghiên
cứu,
chuyển
giao
cho
địa
phương
và
doanh
nghiệp.
Đặc
biệt,
quan
tâm
vấn
đề
vệ
sinh
an
toàn
thực
phẩm,
đẩy
mạnh
nghiên
cứu,
nhân
rộng
các
mô
hình
rau
của
quả
an
toàn…
“Việt
Nam
có
nhu
cầu
lớn
về
Bệnh
viện
cây
trồng.
Việc
thiếu
kinh
phí,
nhận
thức
về
mô
hình
này
còn
thấp,
khả
năng
liên
kết
giữa
các
bên
kém
và
thiếu
nguồn
nhân
lực
chính
là
những
thách
thức
trong
việc
nhân
rộng
các
Bệnh
viện
cây
trồng,
ứng
dụng
nông
nghiệp
công
nghệ
cao
nhằm
thích
ứng
biến
đổi
khí
hậu
tại
Việt
Nam”,
TS Sivpragasam, chuyên
gia
Trung
tâm
Nông
nghiệp
và
Sinh
học
quốc
tế
CABI (
Centre
for
Agriculture
and
Biosciences
International),
bổ
sung:
“Đây là
một
cách
tiếp
cận
để
đưa
nông
nghiệp
đi
theo
hướng
sạch,
an
toàn,
nhưng
số
này
ở
khu
vực
ĐBSCL
còn
rất
ít.
Chúng
tôi
rất
muốn
nhân
rộng
mô
hình
này
ở
các
tỉnh
khác
như
Đồng
Tháp,
Hậu
Giang,
Cần
Thơ…
Khi
nông
dân
tiếp
cận
được
các
BVCT
sẽ
giúp
nhà
quản
lý
rất
nhiều
trong
việc
kiểm
soát
chất
lượng
thuốc
giả,
kém
chất
lượng”.
CABI
đã
phối
hợp
với
Viện
Khoa
học
Nông
nghiệp
Việt
Nam
triển
khai
dự
án Bệnh
viện
cây
trồng
(BVCT)
ở
4
tỉnh:
Hưng
Yên,
Vĩnh
Phúc,
Tiền
Giang
và
Bến
Tre
(dự
án
triển
khai
được
gần
4
năm),
nhằm
nâng
cao
các
dịch
vụ
chẩn
đoán
bệnh
cây
trồng
và
cung
cấp
thông
tin
hỗ
trợ
thông
qua
Ngân
hàng
kiến
thức
chăm
sóc
sức
khoẻ
cây
trồng,
đào
tạo
lực
lượng
cán
bộ,
bác
sĩ
cây
trồng,
hỗ
trợ
nông
dân
quản
lý
dịch
bệnh,
sâu
hại.
Hiện
nay,
dự
án
xây
dựng
được
40
bệnh
viện
cây
trồng.
Năng
lực
thương
mại
hóa
TS
Trần
Ngọc
Thạch,
Viện
trưởng
Viện
lúa
ĐBSCL
cho
biết
Viện
đã
nghiên
cứ
và
đưa
ra
13
giống
lúa
mới,
khả
năng
chịu
mặn
3-4‰,
tính
kháng
rầy,
kháng
bệnh
đạo
ôn,
ngắn
ngày,
năng
suất
cao:
OM6976,
OM2517,
OM5629,
OM8017,
OM9921,
OM8018,
OM6677,
OM10252,
OM6162,
OM5451,
OM4900,
OM7347,
ĐTM126.
Các
giống
cây
trồng
khác
như:
đậu
tương
HL
07-15,
HLĐN29,
HLĐN910,
giống
vừng
(mè)
đen
ĐH-1);
chọn
tạo
giống
mới
một
số
giống
cây
cây
ăn
quả
–
cây
đầu
dòng
sầu
riêng,
chôm
chôm,
xoài,
nhãn
lai.
Viện
lúa
còn
đưa
ra
một
số
giải
pháp
kỹ
thuật
như
cải
tiến
giống,
gốc
ghép
mới
chống
chịu
với
điều
kiện
bất
lợi
của
môi
trường
như
khả
năng
chịu
phèn,
chịu
hạn,
chịu
mặn,
chống
chịu
bệnh
thối
rễ.
Một
số
thành
công
của
khoa
NN&SHƯD,
các
trung
tâm,
các
Viện
tại
trường
ĐH
Cần
Thơ,
được
PGS.TS
Lê
Văn
Hoà,
trưởng
khoa
Nông
nghiệp
và
sinh
học
ứng
dụng,
trường
ĐH
Cần
Thơ,
cho
thấy
hướng
nghiên
cứu
để
giải
quyết
những
vấn
đề
đặt
ra
trong
thực
tế
như
tạo
sức
đề
kháng
cho
cây,
tăng
khả
năng
chống
chịu,
cải
tạo
môi
trường
sống,
quản
lý
dinh
dưỡng
đất,
rửa
mặn,
phèn,
chọn
tạo
và
phóng
thích
giống
kháng
rầy
nâu,
chịu
mặn,
chịu
phèn;
xây
dựng
vùng
sản
xuất
đạt
chứng
nhận
GlobalGAP
cho
1
số
mô
hình
sản
xuất
như
rau
màu,
xoài,
hồ
tiêu,
nghiên
cứu
biện
pháp
giảm
khí
phát
thải
gây
hiệu
ứng
nhà
kính
từ
trồng
trọt….
Nghiên
cứu
giống
lúa
ở
Viện
lúa
ĐBSCL
(ảnh:
Đức
Toàn)
Theo
Cục
trồng
trọt
điều
tra
giống
lúa
năm
2015,
từ
thành
tựu
nghiên
cứu
giống
lúa
mới
đã
chuyển
giao,
đến
tháng
5/2015
cả
nước
có
379
giống
lúa
có
trong
danh
mục
giống
cây
trồng
được
phép
sản
xuất
kinh
doanh
(trong
đó
270
giống
lúa
tẻ
thường,
88
giống
lúa
ưu
thế
lai,
21
giống
lúa
nếp).
Hiện
nay
có
26
giống
lúa
chiếm
diện
tích
gieo
trồng
trên
50.000
ha,
13
giống
gieo
cấy
trên
100.000
ha
trở
lên,
100
giống
có
diện
tích
sản
xuất
nhỏ
hơn,
phân
bố
rải
rác
và
có
tính
đặc
thù
và
122
giống
không
còn
được
đưa
ra
sản
xuất.
Ở
ĐBSCL
45/52
giống
lúa
tẻ
chiếm
98,9%
(4,12
triệu
ha),
5
giống
lúa
lai,
chủ
yếu
ở
vùng
phù
sa
nhiễm
mặn,
vùng
lúa-tôm,
diện
tích
chiếm
trên
31.000
ha,
chiếm
0,8%
và
các
giống
lúa
nếp
mới
và
giống
địa
phương
chiếm
hơn
15.000
ha,
chiếm
0,4%.
Khoảng
10
giống
lúa
tẻ
đang
phổ
biến
như:
IR50404,
OM5451,
OM6976,
OM4900,
Jasmine
85,
OM4218,
Nàng
Hoa
9,
OM7347,
OM2517….
Rất
đa
dạng,
nhưng
loại
nào
có
thể trở
thành
ứng
viên
cho
chiến
lược
thương
hiệu
lúa
gạo
quốc
gia,
vùng,
địa
phương?
Loại
nào
có
thể
tạo
dựng
thanh
thế
và
trụ
vững
trên
thị
trường
như
các
giống
câu
trồng
Thái
Lan,
Campuchia?
Giữa
công
trình
nghiên
cứu
khoa
học
và
năng
lực
cạnh
tranh,
định
vị
thương
hiệu
vẫn
là
khoảng
cách
khá
lớn,
thậm
chí
là
thách
thức
lớn
khi
Việt
Nam
muốn
tiến
về
phía
trước.
PGS
TS
Trịnh
Khắc
Quang
–
Quyền
Viện
trưởng
Viện
KHNN
Việt
Nam
(VAAS):
Dân
số
nước
ta sẽ
trên
100
triệu
người,
đất
canh
tác
qui
mô
nông
hộ
ngày
càng
nhỏ.
Đất
chật,
người
đông,
nếu
chúng
ta
không
chuyển
theo
hướng
nông
nghiệp
CNC
thì
nền
nông
nghiệp
nước
ta
không
thể
phát
triển
được.
Định
hướng
của
Chính
phủ
và
Bộ
NN-PTNT
là
phát
triển
nông
nghiệp
Việt
Nam
trở
thành
nền
nông
nghiệp
CNC
và
có
bước
đi
phù
hợp.
Đầu
tiên
cần
có
giống
tốt,
kế
đến
là
qui
trình
SX
kỹ
thuật
tốt,
trong
đó
xem
xét
các
biện
pháp
canh
tác
trong
nhà
lưới,
nhà
màng…
Trong
những
năm
gần
đây,
BĐKH
cùng
với
thời
tiết
bất
thường
diễn
biến
rất
rõ.
Đầu
năm
ở
miền
Bắc
hứng
chịu
đợt
không
khí
lạnh
sâu,
nhiệt
độ
nhiều
vùng
thấp
nhất
trong
lịch
sử
quan
trắc
và
gây
ra
một
đợt
rét
đậm,
rét
hại
trên
diện
rộng.
Miền
Trung
-
Nam
Trung
bộ,
Tây
Nguyên
gặp
hạn
hán,
vùng
ĐBSCL
vừa
cùng
lúc
gặp
hạn
và
mặn.
Đó
là
nguyên
nhân
chủ
yếu
làm
thiệt
hại
nặng
nề
hơn
249.000
ha
lúa,
hơn
19.200
ha
hoa
màu,
hơn
37.300
ha
cây
ăn
quả
tập
trung
và
hơn
163.000
ha
cây
lâu
năm…với
tổng
giá
trị
lên
hơn
142.144
tỉ
đồng
và
lần
đầu
tiên
GDP
toàn
ngành
nông
nghiệp
nước
ta
giảm
0,78%.
Do
đó,
chúng
ta
cần
có
những
biện
pháp
nghiên
cứu
giống
cây
trồng
mới
và
tìm
giải
pháp
canh
tác
thích
ứng
trước
BĐKH.
Có
3
động
lực
cơ
bản
để
phát
triển
ngành
trồng
trọt,
đó
là
tăng
cường
ứng
dụng
khoa
học
công
nghệ,
đầu
tư
và
cải
thiện
cơ
sở
hạ
tầng,
nhất
là
hạ
tầng
sản
xuất
và
chế
biến
sâu
nông
sản
và
đổi
mới
chính
sách.
Nền
nông
nghiệp
nước
ta
trong
đó
lĩnh
vực
cây
trồng
nói
riêng
là
một
nền
sản
xuất
mở,
hội
nhập
sâu
rộng
vào
kinh
tế
khu
vực
và
quốc
tế,
do
vậy
để
đảm
bảo
sản
xuất
hiệu
quả,
nâng
cao
thu
nhập
của
người
dân,
khoa
học
cây
trồng
cần
cung
cấp
kịp
thời
các
giải
pháp
về
quản
lý,
tổ
chức
sản
xuất,
công
nghệ
để
nâng
cao
chuỗi
giá
trị
cho
mỗi
sản
phẩm
theo
nguyên
tắc
đầu
tư
vật
chất
và
tài
nguyên
ít
hơn,
lao
động
ít
hơn,
rủi
ro
ít
hơn
song
giá
trị
sản
xuất
và
thu
nhập
cao
hơn.
Định
hướng
tái
cơ
cấu
trong
lĩnh
vực
trồng
trọt,
hướng
nghiên
cứu
khoa
học
nông
nghiệp
sắp
tới
sẽ
tập
trung
vào
6
đối
tượng
cây
trồng
chính
là:
Lúa
gạo,
cà
phê,
hồ
tiêu,
cây
điều,
cây
sắn
và
rau
quả.
Nghiên
cứu
chọn
tạo
giống
theo
hướng
nâng
cao
chất
lượng
và
thích
ứng
BĐKH,
kỹ
thuật canh
tác
tiên
tiến
để
giảm
chi
phí
đầu
vào,
nâng
cao
hiệu
quả
kinh
tế
cho
người
sản
xuất.
Theo
chỉ
đạo
của
Bộ
NN-PTNT
cần
nghiên
cứu
về
hình
thức
tổ
chức
sản
xuất,
ứng
dụng
các
tiến
bộ
khoa
học
để
sản
phẩm
nông
nghiệp
của
nước
ta
đi
vào
thị
trường
có
hiệu
quả
và
đạt
giá
trị
cao
hơn.
Đức
Toàn
|
Đức
Toàn
–
Ngọc
Bích