Đây
cũng
là
một
trong
các
hoạt
động
nằm
trong
khuôn
khổ
Hội
chợ
hàng
Việt
Nam
chất
lượng
cao
2016
với
chủ
đề
“Thực
phẩm
–
nông
sản
sạch”
do
Hội
doanh
nghiệp
hàng
Việt
Nam
chất
lượng
cao
(HDNHVNCLC)
phối
hợp
với
Trung
tâm
xúc
tiến
thương
mại
Nông
nghiệp
(TTXTTMNN),
Bộ
Nông
nghiệp
và
Phát
triển
nông
thôn
(NN&PTNT)
tổ
chức
trong
các
ngày
6
-
9/10/2016.
Hội
thảo
khẳng
định
sự
cần
thiết
ứng
dụng
công
nghệ
cao,
kỹ
thuật
mới
trong
sản
xuất
nông
nghiệp
Việt
hiện
nay
(Ảnh:
Minh
An)
Tại
hội
thảo,
đông
đảo
các
chuyên
gia
kinh
tế,
các
chủ
doanh
nghiệp
hàng
đầu
trong
lĩnh
vực
nông
nghiệp
và
các
nhà
nghiên
cứu
nông
nghiệp
đều
nhất
trí
rằng,
Việt
Nam
có
năng
lực
cạnh
tranh
quốc
gia
mạnh
trong
hoạt
động
sản
xuất
các
sản
phẩm
nông
nghiệp.
Điều
này
thể
hiện
ở
vị
trí
dẫn
đầu
của
Việt
Nam
ở
nhiều
mặt
hàng
khác
nhau.
Có
thể
thấy,
trải
qua
30
năm
đổi
mới
(1986
đến
nay),
nền
nông
nghiệp
nước
ta
đã
có
bước
phát
triển
nhanh,
tạo
ra
khối
lượng
nông
sản
hàng
hóa
lớn,
tự
tin
bước
vào
hội
nhập
thị
trường
nông
sản
quốc
tế.
Nhiều
mặt
hàng
nông
sản
có
sức
cạnh
tranh
cao,
chiếm
được
vị
thế
quan
trọng
trên
thị
trường
thế
giới...
Những
thành
tựu
đó
đã
góp
phần
quan
trọng
vào
thành
công
của
công
cuộc
xoá
đói
giảm
nghèo,
nâng
cao
đời
sống
của
nông
dân,
phát
triển
nông
thôn,
làm
cơ
sở
ổn
định
và
phát
triển
kinh
tế
-
xã
hội
trong
nước.
Mặc
dù
đạt
được
nhiều
thành
tựu
trong
xuất
khẩu
hàng
nông
sản
Việt
Nam,
các
mặt
hàng
xuất
khẩu
chủ
lực
của
ta
như
lúa
gạo,
cà
phê,
hồ
tiêu,
hạt
điều…
hầu
như
chưa
có
thương
hiệu
trên
thị
trường
quốc
tế.
Điều
này
cho
thấy,
giá
trị
gia
tăng
của
hàng
hóa
nông
sản
nước
ta
vẫn
còn
rất
thấp,
khả
năng
cạnh
tranh
chưa
cao
so
với
các
đối
thủ
khác
trên
thị
trường.
Nguyên
nhân
của
tình
trạng
trên
là
do
hàm
lượng
công
nghệ,
giá
trị
gia
tăng
trong
các
sản
phẩm
xuất
khẩu
của
Việt
Nam
còn
thấp.
Đa
số
các
mặt
hàng
nông
sản
xuất
khẩu
chủ
lực
của
nước
ta
đều
dưới
dạng
thô
hoặc
sơ
chế
nên
giá
trị
thu
được
chưa
cao.
Chất
lượng
của
hàng
nông
sản
Việt
Nam
thấp,
công
nghệ
chế
biến
lạc
hậu,
mẫu
mã
chưa
hấp
dẫn,
giá
thành
sản
xuất
cao
dẫn
đến
cạnh
tranh
kém,
bị
ép
giá
trên
thị
trường;
Thiếu
nguồn
thông
tin
về
thị
trường
xuất
khẩu
cũng
như
xu
hướng
tiêu
dùng
tại
một
số
thị
trường
cụ
thể.
Thêm
nữa,
năng
lực
tìm
kiếm
thị
trường
của
các
cơ
quan
chức
năng,
các
doanh
nghiệp
còn
yếu;
dự
báo
thông
tin
giá
cả
thiếu
chính
xác,
đặc
biệt
doanh
nghiệp
luôn
lấy
lợi
ích
của
mình
làm
mục
tiêu
kinh
doanh
mà
bỏ
quên
người
nông
dân,
người
trực
tiếp
làm
ra
sản
phẩm.
Các
cơ
quan
chức
năng,
các
doanh
nghiệp
chưa
quan
tâm
đúng
mức
đến
việc
xây
dựng
thương
hiệu
cho
hàng
hóa
nông
sản
Việt
Nam…
Theo
đánh
giá,
phân
tích
của
các
đại
biểu,
thực
trạng
đó
cho
thấy
hơn
bao
giờ
hết,
cần
đẩy
nhanh
và
mạnh
ứng
dụng
các
công
nghệ
mới,
kỹ
thuật
cao
trong
sản
xuất
nông
nghiệp.
Theo
GS.TS
Nguyễn
Quốc
Vọng,
Đại
học
RMIT,
Úc
thì
“công
nghệ
cao
trong
nông
nghiệp
không
nhất
thiết
phải
là
công
nghệ
tiên
tiến
nhất,
mắc
tiền
nhất
hay
nổi
tiếng
nhất
mà
là
công
nghệ
mang
lại
chất
lượng
tốt
nhất,
an
toàn
nhất
với
giá
rẻ
nhất
để
thỏa
mãn
yêu
cầu
của
thị
trường”.
Do
đó,
GS.TS
Vọng
cho
rằng,
nền
nông
nghiệp
trong
nước
cần
tập
trung
triển
khai
hiệu
quả
sản
xuất
theo
chuỗi
giá
trị,
kiểm
soát
chặt
chẽ
từ
khâu
giống,
sản
xuất,
thu
hoạch,
vận
chuyển
tiến
tới
các
khâu
an
toàn
sau
thu
hoạch
(bao
bì,
bảo
quản)
rồi
tiêu
thụ…
Việc
nâng
cao
nghiên
cứu,
lai
chọn
tạo
các
loại
giống
mới
cũng
cần
được
đẩy
mạnh
(Ảnh:
Minh
An)
Trong
bối
cảnh
hiện
nay,
áp
dụng
công
nghệ
cao,
kỹ
thuật
mới
được
coi
là
khâu
then
chốt,
góp
phần
đạt
năng
suất
cao,
chất
lượng
tốt,
sạch
–
an
toàn
mà
giá
cả
hợp
lý
bảo
đảm
sự
phát
triển
bền
vững
cho
nền
nông
nghiệp
trong
nước.
Phân
tích
về
sự
cần
thiết
ứng
dụng
công
nghệ
cao,
kỹ
thuật
mới
nói
trên,
TS
Nguyễn
Thanh
Mỹ,
Tổng
giám
đốc
Rynan
Agrifoods,
Chủ
tịch
của
LBC
Mekong
đã
chỉ
ra
một
số
công
nghệ
tiên
tiến,
kỹ
thuật
hiện
đại
như:
sử
dụng
phân
bón
thông
minh;
ứng
dụng
công
nghệ
điện
toán
đám
mây
và
internet
vạn
vật
trong
trồng
trọt,
chăn
nuôi
và
thủy
sản
để
theo
dõi
chất
lượng
đất,
nước,
phân
bón
nhằm
mục
đích
quản
lý,
phân
phối
và
giảm
khí
nhà
kính
hiệu
quả
hơn;
ứng
dụng
công
nghệ
đóng
gói
bao
bì
cải
tiến
(MAP)
và
khí
cải
tiến
cân
bằng
(EMAP)
để
giảm
lượng
hư
hỏng
nông
sản,
thực
phẩm;
giảm
tầng
lớp
trung
gian,
phát
triển
thương
mại
điện
tử
và
hệ
thống
bán
hàng
tự
động
để
phân
phối
nông
sản
và
thực
phẩm;
ứng
dụng
internet
và
thiết
bị
di
động
để
truy
xuất
nguồn
gốc,
chống
giả,
thông
tin
sản
phẩm
và
thanh
toán
trực
tuyến…
Trong
khuôn
khổ
Hội
thảo,
công
ty
Rạng
Đông
cũng
giới
thiệu
một
số
mô
hình
chiếu
sáng
nông
nghiệp
công
nghệ
cao
trên
cây
trồng,
vật
nuôi
mang
lại
hiệu
quả
đáng
khích
lệ,
đơn
cử
như:
chiếu
sáng
nhân
giống
nuôi
cấy
mô,
chiếu
sáng
trên
hoa
cúc,
thanh
long,
trồng
rau
trong
nhà,
nuôi
trồng
tảo
xoắn
Spirulina…
Có
thể
thấy,
cùng
với
việc
đồng
bộ
các
giải
pháp
để
gia
tăng
cạnh
tranh
nông
sản
Việt,
việc
ứng
dụng
công
nghệ
cao,
kỹ
thuật
mới
thực
sự
cấp
thiết,
góp
phần
giảm
công
lao
động
cho
người
nông
dân,
tăng
năng
suất
và
nâng
cao
chất
lượng
sản
phẩm.
Theo
đó,
tập
trung
cải
tạo,
phát
triển
các
loại
giống
có
năng
suất
cao
và
áp
dụng
tiến
bộ
khoa
học
-
kỹ
thuật;
thực
hiện
cơ
giới
hóa,
hiện
đại
hóa,
xây
dựng
vùng
nguyên
liệu
gắn
với
nhà
máy
chế
biến
và
thực
hiện
đa
dạng
hóa
sản
phẩm.
Phát
triển
các
doanh
nghiệp,
hợp
tác
xã
cổ
phần
nông
nghiệp,
qua
đó
hình
thành
vùng
sản
xuất
hàng
hóa
lớn
trong
nông
nghiệp.
Có
chính
sách
thu
hút
đầu
tư
trong
và
ngoài
nước,
đặc
biệt
là
đầu
tư
nước
ngoài
vào
nông
nghiệp,
nhất
là
nông
nghiệp
công
nghệ
cao.
Ngoài
ra,
đầu
tư
mạnh
cho
nghiên
cứu
khoa
học
(giống
cây
trồng
và
vật
nuôi,
kể
cả
những
giống
có
gien
chuyển
đổi
thích
nghi
với
điều
kiện
canh
tác
khắc
nghiệt
của
nông
dân
vùng
sâu,
vùng
xa);
công
nghệ
sau
thu
hoạch…/.