Cách
đây
nhiều
năm,
bộ
Nông
nghiệp
và
phát
triển
nông
thôn
cũng
như
UBND
các
tỉnh
vùng
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
khuyến
cáo
người
dân
không
nên
sản
xuất
đại
trà
lúa
IR50404,
vì
lúa
này
chỉ
cho
ra
loại
gạo
xuất
khẩu
cấp
thấp
như
gạo
25%.
Cách
đây
đôi
năm,
với
biện
pháp
tình
thế
nhằm
giảm
thiểu
tồn
kho
loại
lúa
IR50404
phẩm
cấp
thấp
này
trong
dân,
các
công
ty
giám
định
đã
du
di
cho
phép
các
nhà
máy
xay
xát
đấu
trộn
gạo
IR50404
với
gạo
hạt
dài
để
làm
gạo
5%
cao
cấp
xuất
khẩu.
Chính
việc
làm
uyển
chuyển
này
càng
khiến
nông
dân
lao
vào
sản
xuất
đại
trà
giống
lúa
IR50404,
vì
năng
suất
cao
và
vẫn
xuất
khẩu
được,
trong
suốt
hơn
hai
năm
qua.
Tuy
nhiên,
trên
thực
tế,
với
cách
làm
“uyển
chuyển”
đó,
mẫu
gạo
cao
cấp
5%
tấm
hiện
nay
thua
xa
mẫu
gạo
5%
cách
đây
4
–
5
năm,
khi
mà
giống
lúa
IR64
(độ
trong
nguyên
cao,
không
bị
đốm
phấn
ở
bụng
hạt
gạo)
lúc
đó
được
sản
xuất
đại
trà
dành
cho
xuất
khẩu.
Chính
sách
nông
nghiệp
ảnh
hưởng
rất
lớn
đến
người
nông
dân.
Ảnh:
H.Lan |
Cũng
trong
hai
năm
qua,
Ấn
Độ
quay
lại
thị
trường,
xuất
khẩu
một
lượng
gạo
khá
lớn
đến
các
thị
trường
truyền
thống
trước
đây
của
Việt
Nam.
Khách
hàng,
vì
thế,
có
dịp
so
sánh
chất
lượng
gạo
giữa
các
nước
khác
nhau.
Nếu
cách
đây
ba
năm,
gạo
25%
của
Myanmar
được
coi
là
tệ
nhất
thì
ngày
nay,
khách
hàng
coi
gạo
Việt
Nam
có
chất
lượng
kém
nhất,
kể
cả
gạo
cao
cấp
5%
hay
gạo
cấp
thấp
25%
tấm.
Đặc
tính
của
gạo
IR50404
của
Việt
Nam
là
hầu
hết
hạt
gạo
có
đốm
phấn
ở
bụng
gạo,
mặc
dù
tỷ
lệ
bạc
bụng
nằm
trong
quy
cách
xuất
khẩu
nhưng
sau
hai
năm
qua,
thị
trường
đã
bắt
đầu
phản
ứng
với
chất
lượng
gạo
xuất
khẩu
của
Việt
Nam.
Họ
cho
rằng
gạo
Việt
Nam
nấu
cứng
cơm
hơn
xưa.
Hiển
thị
giá
gạo
trên
thị
trường,
có
thể
tham
khảo
trên
trang
Oryza.com
và
với
bảng
giá
này,
có
thể
thấy
đánh
giá
của
khách
hàng
với
chất
lượng
gạo
Việt
Nam.
Lấy
gạo
25%
tấm
của
Pakistan
làm
ví
dụ:
tiêu
chuẩn
xuất
khẩu
gạo
25%
của
nước
này
có
chiều
dài
hạt
gạo
là
6,8mm,
tấm
trên
cơ
sở
3/4,
có
nghĩa
là
chiều
dài
hạt
tấm
5,1mm;
ngoài
ra,
do
khí
hậu
khô
quanh
năm
nên
ẩm
độ
hạt
gạo
Pakistan
luôn
luôn
thấp,
bạc
bụng
thấp,
độ
trong
nguyên
cao
do
gạo
được
tạo
ra
từ
giống
lúa
IR6
hạt
dài
sản
xuất
đại
trà.
Trong
khi
đó,
gạo
25%
tấm
của
Việt
Nam
có
chiều
dài
hạt
6,2mm,
tấm
trên
cơ
sở
1/2,
tương
đương
3,1mm,
độ
trong
nguyên
thấp.
Về
giá,
thị
trường
chấp
nhận
giá
gạo
25%
tấm
của
Pakistan
cao
hơn
giá
gạo
5%
của
Việt
Nam,
vì
nếu
so
sánh
về
mặt
cảm
quan
cũng
thấy
mặt
hàng
gạo
25%
của
Pakistan
có
độ
trong
nguyên
cao,
ít
có
hạt
gãy
hơn
so
với
gạo
5%
của
Việt
Nam
và
hơn
xa
chất
lượng
gạo
25%
của
Việt
Nam.
Vài
con
số
so
sánh
để
thấy
tình
trạng
báo
động
về
chất
lượng
gạo
Việt
Nam
trên
thị
trường
thế
giới.
Trở
lại
với
cách
sản
xuất
lúa
gạo
trong
nước.
Rõ
ràng
biện
pháp
hành
chính
của
chính
quyền
các
cấp
nhằm
khuyến
cáo
nông
dân
hạn
chế
trồng
giống
lúa
IR50404,
chưa
thực
sự
thay
đổi
được
cách
làm
của
nông
dân.
Đã
đến
lúc
Chính
phủ
cần
có
biện
pháp
kỹ
thuật
tốt
hơn,
quản
lý
chặt
chẽ,
mạnh
hơn
đối
với
việc
canh
tác
loại
giống
lúa
nào
để
đảm
bảo
được
mức
lãi
30%
cũng
như
đảm
bảo
xây
dựng
lại
thương
hiệu
gạo
xuất
khẩu
của
Việt
Nam
như
đã
từng
có
trước
đây.
Vấn
đề
này
hiện
nay
đã
trở
nên
cấp
bách!
20
năm
qua,
Việt
Nam
duy
trì
tiêu
chuẩn
gạo
xuất
khẩu
6,2mm,
trong
khi
giống
lúa
IR50404
đã
có
chiều
dài
trung
bình
6,4mm
và
nhiều
nước
khác
đã
duy
trì
tiêu
chuẩn
gạo
xuất
khẩu
có
chiều
dài
hạt
gạo
trung
bình
6,8mm.
Hiện
nay,
các
giống
lúa
lai
như
lúa
OM4218
và
nhiều
loại
giống
OM
khác
đang
sản
xuất
ở
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
đều
có
hạt
dài
trung
bình
6,8mm.
Và
thực
tế
là
giống
lúa
này,
tuy
được
xuất
khẩu
với
số
lượng
chưa
nhiều,
nhưng
chắc
chắn
sẽ
được
xuất
khẩu
nhiều
hơn
khi
đưa
giống
lúa
này
thành
tiêu
chuẩn
xuất
khẩu
gạo
mới,
thay
thế
cho
tiêu
chuẩn
gạo
xuất
khẩu
cũ
từ
hơn
20
năm
trước.
Bộ
Nông
nghiệp
và
phát
triển
nông
thôn,
UBND
các
tỉnh,
hiệp
hội
Lương
thực
Việt
Nam
đã
đúng
khi
khuyến
cáo
nông
dân
hạn
chế
trồng
giống
lúa
IR50404,
vì
đã
không
còn
đáp
ứng
được
các
chỉ
tiêu
xuất
khẩu
mà
thị
trường
yêu
cầu.
Các
doanh
nghiệp
kinh
doanh
gạo
từ
chối
không
mua
những
loại
lúa
không
đảm
bảo
tiêu
chuẩn
xuất
khẩu
cũng
có
lý
do
của
họ.
Vụ
hè
thu
năm
nay,
do
có
những
nơi
thiếu
nước
trong
thời
gian
gieo
trồng,
nên
lúa
IR50404
đã
thu
hoạch
có
tỷ
lệ
bạc
bụng
rất
cao,
có
nơi
bạc
bụng
lên
tới
13
–
15%
cho
nguyên
liệu
làm
gạo
25%
tấm
(trong
khi
tiêu
chuẩn
xuất
khẩu
gạo
25%
tấm
chỉ
cho
phép
tối
đa
8%
bạc
bụng).
Tình
hình
này
cho
thấy
nhiều
khả
năng
lúa
hè
thu
sắp
tới
sẽ
tiếp
tục
bị
ế
ẩm
do
thương
lái
hoặc
doanh
nghiệp
từ
chối
thu
mua.
Với
chuẩn
lúa
gạo
như
vậy,
chỉ
có
thể
dành
cho
thị
trường
nội
địa.
Đây
sẽ
là
khó
khăn
lớn
không
chỉ
với
nông
dân
mà
với
cả
các
doanh
nghiệp
xuất
khẩu.
Đến
lúc
này,
có
lẽ
nông
dân
vùng
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
cũng
đã
phần
nào
nhận
ra
vì
sao
có
lúa
muốn
bán
mà
khó
kiếm
được
người
mua.
Thế
nhưng
thực
tế
đó
có
giúp
nông
dân
nhìn
ra
tất
cả
vấn
đề
để
chuyển
sang
sản
xuất
đại
trà
những
loại
lúa
có
phẩm
cấp
cao
hơn,
như
giống
OM,
hay
không
lại
là
chuyện
khác.
Cần
phải
có
sự
hỗ
trợ
–
trước
hết
là
từ
cơ
quan
chuyên
môn,
nơi
phát
hành
quy
cách
gạo
xuất
khẩu
của
Việt
Nam
–
về
việc
lựa
chọn
giống
lúa
cũng
như
quy
cách
gạo
xuất
khẩu
cho
nông
dân.
Có
một
thực
tế
là
đã
hơn
20
năm
rồi
nhưng
quy
cách
gạo
xuất
khẩu
của
Việt
Nam
vẫn
không
thay
đổi
là
mấy
dù
thị
trường
đã
thay
đổi
rất
nhiều!
Chỉ
khi
nào
Việt
Nam
thay
đổi
quy
cách
gạo
xuất
khẩu
(chẳng
hạn
chiều
dài
hạt
gạo
phải
đạt
trung
bình
6,8mm)
cho
phù
hợp
với
nhu
cầu
thị
trường,
thì
mới
có
cơ
hội
xây
dựng
thương
hiệu
Gạo
Việt
Nam
chất
lượng
cao,
giá
sánh
ngang
bằng
giá
gạo
của
các
quốc
gia
khác.
Và
cũng
chỉ
có
như
vậy
mới
khuyến
cáo
được
nông
dân
chuyển
đổi
giống
lúa
mới
trong
canh
tác
nhằm
đạt
hiệu
quả
sản
xuất.