CôngThương -
Theo
ông,
tại
sao
suốt
25
năm
qua
chúng
ta
vẫn
chưa
định
vị
được
thương
hiệu
gạo
Việt
Nam
trên
thị
trường
quốc
tế?
Có
nhiều
nguyên
nhân.
Việt
Nam
tham
gia
vào
thị
trường
xuất
khẩu
gạo
rất
muộn,
trong
bối
cảnh
phân
khúc
thị
trường
gạo
chất
lượng
cao
gần
như
đã
phủ
kín
bởi
Thái
Lan,
Pakistan,
Ấn
Độ.
Việc
cạnh
tranh
để
vào
được
phân
khúc
gạo
chất
lượng
cao
không
đơn
giản.
Gạo
Việt
Nam
hoặc
phải
có
chất
lượng
cao
hơn,
hoặc
giá
phải
thấp
hơn,
việc
đó,
Việt
Nam
chưa
thể
làm
được
với
2
lý
do:
Thứ
nhất,
không
bảo
đảm
an
ninh
lương
thực.
Nhìn
sang
Thái
Lan,
10
triệu
ha
đất
lúa
và
60
triệu
dân
cho
phép
họ
dành
một
phần
lớn
diện
tích
đất
để
trồng
lúa
chất
lượng
cao,
năng
suất
chỉ
2,2-
2,3
tấn/ha,
dù
thời
gian
sinh
trưởng
gần
gấp
đôi
giống
lúa
của
Việt
Nam
và
chỉ
làm
một
vụ/năm.
Như
vậy,
Thái
Lan
thừa
sức
xuất
khẩu
gần
10
triệu
tấn
gạo/năm.
Việt
Nam
có
4,1
triệu
ha
đất
lúa,
nếu
trồng
lúa
chất
lượng
cao
như
Thái
Lan
chắc
chắn
không
đủ
gạo
ăn
cho
gần
90
triệu
dân.
Vì
vậy,
Việt
Nam
buộc
phải
trồng
lúa
năng
suất
cao,
chất
lượng
chấp
nhận
được
và
thâm
canh
2-
3
vụ/năm.
Dĩ
nhiên,
Việt
Nam
có
thể
dành
ra
một
phần
diện
tích
sản
xuất
gạo
tốt
hơn
để
nâng
cao
giá
trị.
Thứ
hai,
doanh
nghiệp
(DN)
không
đầu
tư
sản
xuất
lúa
gạo.
Chuỗi
sản
xuất
lúa
gạo
gồm
3
công
đoạn:
Sản
xuất-
chế
biến,
bảo
quản-
thương
mại,
xuất
khẩu,
trong
đó
có
quảng
bá
thương
hiệu.
Tuy
nhiên,
các
công
đoạn
đang
bị
cắt
rời.
DN
chỉ
làm
một
việc
là
thu
gom,
chế
biến
và
xuất
khẩu,
thay
vì
tổ
chức
sản
xuất
lúa
theo
yêu
cầu
chất
lượng
của
hợp
đồng
xuất
khẩu
đã
ký.
Các
nhà
khoa
học
nghiên
cứu
ra
giống
tốt
rồi
để
đấy,
vì
DN
không
tổ
chức
sản
xuất.
Nông
dân
sản
xuất
nhỏ,
tự
chọn
giống
nên
gạo
bị
lẫn
loại.
Đây
là
bài
toán
tầm
vĩ
mô,
Chính
phủ
phải
quan
tâm.
Ngay
trong
phân
khúc
tầm
trung,
gạo
Việt
cũng
chưa
có
thương
hiệu?
Đúng
vậy.
Lượng
gạo
chu
chuyển
trên
thị
trường
thế
giới
hiện
nay
chưa
đến
40
triệu
tấn,
trong
đó,
Việt
Nam
chiếm
1/4,
khoảng
8
triệu
tấn,
tập
trung
ở
phân
khúc
gạo
chất
lượng
trung
bình.
Các
nước
có
khả
năng
cạnh
tranh
lớn
với
Việt
Nam
là
Campuchia.
Họ
có
dân
số
rất
thấp,
dù
chưa
có
điều
kiện
đầu
tư
cho
trồng
lúa
nhưng
sẽ
là
đối
thủ
cạnh
tranh
lớn.
Cùng
với
đó
là
Myanmar,
một
nước
cũng
có
khả
năng
xuất
khẩu
gạo
rất
lớn.
Nhược
điểm
cơ
bản
của
lúa
gạo
Việt
Nam
là
gạo
bị
lẫn
loại,
không
kiểm
soát
được
lượng
hóa
chất,
không
truy
suất
được
nguồn
gốc. |
Xây
dựng
thương
hiệu
cho
gạo
Việt
Nam,
theo
ông,
bằng
cách
nào?
Có
4
công
đoạn.
Thứ
nhất,
việc
tổ
chức
sản
xuất
cần
phải
có
liên
kết
chặt
chẽ
giữa
DN
và
nông
dân.
DN
đặt
hàng
nông
dân
trồng
sản
phẩm
gì
để
xuất
khẩu
và
xây
dựng
hệ
thống
chế
biến.
Thứ
hai,
DN
phải
chia
sẻ
với
nông
dân
về
mặt
lợi
nhuận
của
toàn
chuỗi
giá
trị,
coi
nông
dân
như
là
một
cổ
đông
chứ
không
“cưa
đứt,
đục
suốt”
như
hiện
nay.
Thứ
ba,
nhà
nước
hỗ
trợ
DN
để
xây
dựng
thương
hiệu.
Thông
qua
các
hội
chợ,
triển
lãm
quốc
tế,
DN
quảng
bá
cho
sản
phẩm
theo
nhu
cầu
của
thị
trường,
ví
dụ,
Trung
Đông
hướng
vào
gạo
đồ,
Đông
Bắc
Á
hướng
vào
gạo
hạt
tròn...
Thứ
tư,
nhà
khoa
học
nghiên
cứu
tạo
ra
giống
lúa
theo
đặt
hàng
của
DN,
cùng
tham
gia
sản
xuất
với
nông
dân.
Muốn
phát
triển
thương
hiệu
gạo
Việt
phải
thay
đổi
tư
duy.
Muốn
thay
đổi
phải
có
thời
gian
và
các
điều
kiện.
Trong
đó,
quan
trọng
nhất
là
thay
đổi
tư
duy
về
điều
chỉnh
ngành,
điều
chỉnh
rồi
thì
phải
đầu
tư
nhiều
tiền.
Ví
dụ,
chuyển
sang
sản
xuất
ngô,
phải
quy
hoạch
lại
toàn
bộ
hệ
thống
tưới,
tập
huấn
cho
nông
dân,
nhưng
điều
đáng
nói
là
DN
nào
sẽ
làm?...
Xin
cảm
ơn
ông!