ĐBSCL
cần
dũng
khí
và
trí
tuệ
để
chuyển
sang
mô
hình
phát
triển
mới
Thứ
năm
-
24/12/2020
09:50
ĐBSCL
đang
đứng
trước
ngưỡng
tới
hạn
của
mô
hình
phát
triển
cũ.
Nếu
mô
hình
này
–
bao
gồm
cả
chính
sách
của
nhà
nước
và
tập
quán
của
người
dân
và
doanh
nghiệp
–
không
thay
đổi,
thì
tụt
hậu
là
điều
không
thể
tránh
khỏi
và
sự
tan
rã
của
ĐBSCL
chỉ
là
vấn
đề
thời
gian.
Ngược
lại,
nếu
đủ
dũng
khí
và
trí
tuệ
để
chuyển
sang
mô
hình
phát
triển
mới,
những
thách
thức
hiện
nay
sẽ
trở
thành
cơ
hội
to
lớn
để
ĐBSCL
tăng
cường
năng
lực
cạnh
tranh
và
phát
triển
bền
vững,
từ
đó
mở
ra
một
tương
lai
xán
lạn
cho
hơn
17
triệu
đồng
bào
cũng
như
những
thế
hệ
con
cháu
chúng
ta
sau
này.
Mô
hình
phát
triển
mới
của
ĐBSCL
không
chỉ
tập
trung
vào
tăng
trưởng
kinh
tế,
mà
quan
trọng
hơn,
phải
tạo
ra
được
sự
phát
triển
toàn
diện
về
kinh
tế
–
xã
hội
–
văn
hóa
–
giáo
dục
–
môi
trường
cho
Vùng,
và
sự
phát
triển
này
phải
bền
vững.
May
mắn
là
định
hướng
này
hoàn
toàn
phù
hợp
với
tinh
thần
của
Nghị
quyết
120
của
Chính
phủ
về
“Phát
triển
bền
vững
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
thích
ứng
với
biến
đổi
khí
hậu”.
Tuy
nhiên,
có
nghị
quyết
đúng
mới
chỉ
là
bước
đầu,
quan
trọng
hơn
ĐBSCL
phải
cùng
nhau
đưa
ra
được
chiến
lược,
chính
sách,
và
quy
hoạch
tổng
thể
vùng
nhằm
tạo
ra
các
điều
kiện
thuận
lợi
về
môi
trường,
kinh
tế,
xã
hội,
cơ
sở
hạ
tầng,
điều
phối
vùng,
v.v.
nhằm
triển
khai
được
mô
hình
phát
triển
này
trên
thực
tế.
Để
góp
phần
cùng
với
ĐBSCL
trong
nỗ
lực
xây
dựng
và
triển
khai
mô
hình
phát
triển
mới,
VCCI
Cần
Thơ
đã
phối
hợp
cùng
Trường
Chính
sách
công
và
quản
lý
Fulbright
xuất
bản
Báo
cáo
Thường
niên
đầu
tiên
về
kinh
tế
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long,
với
mục
tiêu
trọng
tâm
là
nâng
cao
năng
lực
cạnh
tranh
cho
Vùng
để
phát
triển
một
cách
bền
vững.
Dưới
đây
là
phần
kết
luận
và
khuyến
nghị
chung
với
những
thông
điệp
có
tính
xuyên
suốt:
1
–
Lợi
thế
cạnh
tranh
của
ĐBSCL
chủ
yếu
đến
từ
điều
kiện
tự
nhiên
sẵn
có (tài
nguyên
đất,
nước,
hệ
sinh
thái)
và
di
sản
đến
từ
quá
khứ
(tài
nguyên
văn
hóa,
tôn
giáo).
Thế
nhưng
các
tài
nguyên
này
hoặc
đang
bị
tận
khai
tới
mức
thiếu
bền
vững,
hoặc
đang
đứng
trước
rủi
ro
to
lớn
từ
bên
ngoài,
hoặc
đang
dần
mai
một
theo
năm
tháng,
hoặc
đang
bị
cơ
chế
chính
sách
cản
trở
không
phát
huy
hết
được
nội
lực
phong
phú
của
mình.
2
–
Tương
lai
phát
triển
của
ĐBSCL
một
mặt
phụ
thuộc
vào
năng
lực
nuôi
dưỡng
các
nguồn
tài
nguyên này
cho
các
thế
hệ
kế
tiếp,
mặt
khác
phụ
thuộc
vào
nỗ
lực
tìm
kiếm
và
xây
dựng
những
động
lực
phát
triển
mới
cho
vùng.
Hai
điều
này,
đòi
hỏi
tư
duy
và
cách
tiếp
cận
mới
đối
với
bài
toán
phát
triển
của
ĐBSCL,
vì
chỉ
như
vậy
mới
thoát
ra
được
quỹ
đạo
hiện
nay
để
chuyển
sang
mô
hình
phát
triển
mới
cho
toàn
vùng
ĐBSCL
cũng
như
mỗi
địa
phương
trong
vùng.
3
–
Mô
hình
phát
triển
mới
không
được
phép
bay
bổng
hay
lý
tưởng
hóa,
mà
phải
hết
sức
thực
tiễn, được
định
hình
từ
chính
thực
trạng
và
phải
đưa
ra
được
lời
giải
cho
những
bài
toán
kinh
tế
–
xã
hội
–
môi
trường
nóng
bỏng
của
ĐBSCL.
Ở
góc
độ
rộng
hơn,
mô
hình
phát
triển
mới
này
cũng
phải
gắn
với
bối
cảnh
kinh
tế
và
thể
chế
của
đất
nước,
đồng
thời
thuận
theo
các
xu
thế
toàn
cầu
để
tận
dụng
được
các
cơ
hội
mới
nhờ
sự
chuyển
hướng
của
các
dòng
đầu
tư
FDI,
sự
phát
triển
vượt
bậc
của
công
nghệ
thông
tin
và
công
nghệ
sinh
học,
đáp
ứng
nhu
cầu
ngày
càng
khắt
khe
của
người
tiêu
dùng
trên
toàn
thế
giới.
4
–
Là
vùng
có
xuất
phát
điểm
tương
đối
thấp,
không
những
thế
lại
đang
tụt
hậu, có
nguồn
lực
eo
hẹp
và
phụ
thuộc
nhiều
vào
trung
ương,
một
cách
thực
tế
mô
hình
phát
triển
của
ĐBSCL
trong
thập
niên
tiếp
theo
vẫn
phải
dựa
vào
các
thế
mạnh
sẵn
có
nổi
trội
của
mình.
Tuy
nhiên,
thay
vì
đi
theo
lối
mòn
truyền
thống,
các
tỉnh
ĐBSCL
cần
kiến
tạo
môi
trường
và
điều
kiện
cần
thiết
để
người
dân,
doanh
nghiệp,
và
chính
quyền
cùng
nhau
tìm
ra
những
giải
pháp
mới,
những
lối
đi
mới
cho
bài
toán
phát
triển
của
mình,
qua
đó
đóng
góp
cho
sự
phát
triển
của
cả
vùng.
5
–
Mặc
dù
trước
mắt
nền
nông
nghiệp
truyền
thống vẫn
là
nguồn
tạo
công
ăn
việc
làm
chủ
yếu
cho
đa
số
nông
dân,
nhờ
đó
góp
phần
giảm
nghèo
và
ổn
định
xã
hội,
song
trong
dài
hạn,
nông
nghiệp
truyền
thống
không
thể
là
nền
tảng
phát
triển
kinh
tế
và
ổn
định
xã
hội
cho
Vùng.
Vì
vậy,
ĐBSCL
phải
chuyển
đổi
nông
nghiệp
một
cách
cơ
bản,
trong
đó
then
chốt
là
phải
phát
triển
nền
kinh
tế
nông
nghiệp
hiện
đại
thay
cho
nền
sản
xuất
nông
nghiệp
truyền
thống.
Cụ
thể
là:
–
Thị
trường
hóa
hoạt
động
nông
nghiệp,
gắn
với
thị
trường
để
ổn
định
đầu
ra.
–
Công
nghiệp
hóa
và
công
nghệ
hóa
nông
nghiệp
để
tăng
năng
suất,
chất
lượng.
–
Dịch
vụ
hóa
nông
nghiệp
để
tăng
cường
chuyên
môn
hóa
và
cải
thiện
hiệu
quả.
–
Nông
nghiệp
thích
ứng
với
môi
trường
và
khí
hậu
để
phát
triển
bền
vững.
6
–
Để
phát
triển
một
nền
nông
nghiệp
bền
vững
cả
về
kinh
tế
và
môi
trường, chắc
chắn
phải
thay
thế
các
hệ
thống
thâm
canh
nông
nghiệp
–
đặc
biệt
là
lúa
ba
vụ
–
bằng
các
hệ
thống
canh
tác
hiệu
quả
và
thân
thiện
với
môi
trường
hơn.
Nền
nông
nghiệp
cần
chuyển
sang
ưu
tiên
chất
lượng
thay
cho
số
lượng,
cạnh
tranh
nhờ
giá
trị
cao
thay
cho
giá
cả
thấp.
Tổ
chức
và
chính
sách
nông
nghiệp
cần
theo
định
hướng
cụm
ngành
và
chuỗi
giá
trị
thay
vì
phân
tán
và
cục
bộ.
7
–
Về
cơ
cấu
nông
nghiệp,
bên
cạnh
cơ
cấu
về
chất
lượng
và
giá
trị
như
ở
điểm [6],
trong
dài
hạn,
ĐBSCL
cần
chuyển
đổi
thứ
bậc
cơ
cấu
từ
lúa
gạo
–
thủy
sản
–
trái
cây
sang
thủy
sản
–
trái
cây
–
lúa
gạo.
Để
thực
hiện
được
cơ
cấu
này,
trước
tiên
cần
thay
đổi
tư
duy
về
nguồn
lực
của
đồng
bằng,
trong
đó
không
chỉ
coi
trọng
nước
ngọt
(phục
vụ
cho
lúa
gạo
và
trái
cây)
mà
phải
thấu
hiểu
nước
mặn
và
nước
lợ
là
các
nguồn
tài
nguyên
quý
báu
không
chỉ
cho
hoạt
động
nuôi
trồng
thủy
sản
trong
đất
liền
mà
còn
cho
việc
phát
triển
các
nguồn
lợi
thủy
sản
ven
biển.
Hệ
thống
đê
bao
và
cống
ngăn
mặn
cần
được
điều
chỉnh
một
cách
tương
ứng
để
trả
lại
cho
đất,
nước,
và
hệ
sinh
thái
của
ĐBSCL
sự
sống
động
và
những
đặc
tính
“thuận
tự
nhiên”
vốn
có
theo
tinh
thần
Nghị
quyết
120
năm
2017
của
Chính
phủ.
Trong
dài
hạn,
để
xây
dựng
định
hướng
chuyển
đổi
cơ
cấu
nông
nghiệp,
ĐBSCL
cần
tính
toán
thật
kỹ
tác
động
của
biến
đổi
khí
hậu
và
nguồn
nước
sông
Mekong,
xu
hướng
tiêu
dùng
và
sản
xuất
nông
nghiệp
trên
thế
giới
để
có
chiến
lược
dài
hạn
và
lộ
trình
dịch
chuyển
cơ
cấu
phù
hợp
cho
các
thời
kỳ
tiếp
theo.
8
–
Trong
ngắn
hạn,
thậm
chí
là
trung
hạn,
du
lịch
chưa
thể
trở
thành
ngành
kinh
tế
mũi
nhọn và
nền
tảng
cho
phát
triển
kinh
tế
của
các
tỉnh
trong
Vùng.
Tuy
nhiên,
du
lịch
rất
quan
trọng
trong
việc
cải
thiện
công
ăn
việc
làm,
thu
nhập
cho
người
dân,
và
hình
ảnh
của
ĐBSCL.
Thay
cho
phát
triển
du
lịch
theo
lối
mòn
truyền
thống,
các
tỉnh
nói
riêng
và
vùng
ĐBSCL
nói
chung
cần
tìm
ra
những
mô
hình
phát
triển
du
lịch
mới
mẻ,
đáp
ứng
nhu
cầu
ngày
một
cao
của
dân
số
tương
đối
trẻ
và
ngày
một
tinh
tế
của
tầng
lớp
trung
lưu
đang
phát
triển
rất
nhanh
ở
Việt
Nam.
9
–
Trong
thập
niên
sắp
tới,
ĐBSCL
đứng
trước
nhiều
cơ
hội
và
sự
lựa
chọn trong
phát
triển
công
nghiệp
nhờ
sự
phát
triển
của
cơ
sở
hạ
tầng
kết
nối,
sự
lan
tỏa
hoạt
động
công
nghiệp
từ
vùng
Đông
Nam
bộ,
lợi
thế
về
đất
đai
và
chi
phí
của
Vùng.
Tuy
nhiên,
như
đã
phân
tích
trong
Báo
cáo,
công
nghiệp
của
ĐBSCL
nên
gắn
bó
một
cách
hữu
cơ
và
trở
thành
bệ
đỡ
cho
phát
triển
kinh
tế
nông
nghiệp
của
Vùng.
Điều
này
hàm
ý
là
các
tỉnh
ĐBSCL
cần
cân
đối
giữa
một
bên
là
các
hoạt
động
sản
xuất
công
nghiệp
nhẹ,
công
nghiệp
chế
biến,
công
nghiệp
năng
lượng
tái
tạo
với
bên
kia
là
hoạt
động
chế
biến
sản
phẩm
nông
nghiệp
để
nâng
cao
giá
trị
gia
tăng
và
ổn
định
đầu
ra
cho
nông
nghiệp.
Cần
lưu
ý
thêm
rằng
để
phát
triển
nông
nghiệp
và
du
lịch
chất
lượng
cao,
ĐBSCL
cần
hạn
chế
tối
đa
các
ngành
công
nghiệp
ô
nhiễm.
10
–
Đối
với
các
ngành
truyền
thống (như
lúa
gạo,
thủy
sản,
trái
cây,
du
lịch)
và
các
ngành
tiềm
năng
(như
năng
lượng
tái
tạo
hay
logistics),
cần
áp
dụng
cách
tiếp
cận
cụm
ngành
và
chuỗi
giá
trị,
hướng
đến
các
chỉ
tiêu
hiệu
quả
sau
cùng
như
tạo
công
ăn
việc
làm,
thu
nhập
của
người
lao
động
và
đóng
góp
ngân
sách
cho
địa
phương.
Trong
nỗ
lực
này,
doanh
nghiệp
và
hiệp
hội
doanh
nghiệp
đóng
vai
trò
then
chốt
không
chỉ
trong
việc
tổ
chức
hoạt
động
sản
xuất
mà
quan
trọng
hơn
là
xây
dựng
thương
hiệu,
tổ
chức
chuỗi
giá
trị,
và
đảm
bảo
thị
trường
đầu
ra.
Chính
quyền
địa
phương
đóng
vai
trò
hỗ
trợ,
đặc
biệt
là
tạo
các
điều
kiện
về
môi
trường
kinh
doanh
và
các
thể
chế
hỗ
trợ
để
nông
dân
và
doanh
nghiệp
có
thể
liên
kết
với
nhau
và
để
các
tác
nhân
tham
gia
cụm
ngành
có
thể
hợp
tác
để
cùng
phát
triển.
11
–
Cũng
như
cả
nước,
ĐBSCL
đang
gặp
phải
ba
nút
thắt
quan
trọng
trong
quá
trình
phát
triển.
Nút
thắt
đầu
tiên,
quan
trọng
nhất
cản
trở
sự
phát
triển
kinh
tế
của
tất
cả
các
tỉnh
cũng
như
toàn
vùng
ĐBSCL
nằm
ở
kết
cấu
hạ
tầng
(số
lượng,
chất
lượng,
và
tính
đồng
bộ),
đặc
biệt
là
kết
cấu
hạ
tầng
giao
thông.
Vì
vậy,
thay
bằng
việc
mỗi
tỉnh
đơn
phương
vận
động
để
xin
trung
ương
sân
bay
hay
cảng
nước
sâu
cho
riêng
mình
thì
cả
13
tỉnh
–
thành
phố
ĐBSCL
cần
đồng
lòng,
hợp
tác
kiến
nghị
trung
ương
xây
dựng
bằng
được
hệ
thống
kết
cấu
hạ
tầng
giao
thông
thông
suốt,
đồng
bộ,
chất
lượng
để
kết
nối
với
nhau
và
với
vùng
Đông
Nam
bộ.
Phát
triển
trục
đường
cao
tốc
nối
liền
TP.HCM
cho
đến
tận
Cà
Mau
cần
phải
trở
thành
ưu
tiên
chiến
lược
hàng
đầu
của
toàn
Vùng
trong
thời
gian
tới.
12
–
Kết
cấu
hạ
tầng
của
ĐBSCL
còn
yếu
kém
là
do
không
được
đầu
tư
đúng
mức
trong
một
thời
gian
dài. Tuy
nhiên,
điều
này
không
nhất
thiết
là
do
thiếu
đầu
tư
của
trung
ương
như
quan
niệm
phổ
biến
hiện
nay.
Thực
tế
là
trung
ương
đã
chi
rất
nhiều
tiền
để
đầu
tư
vào
các
dự
án
khổng
lồ
như
các
đại
dự
án
thủy
lợi
chuyển
nước
ngọt
từ
sông
Hậu
đến
Quản
Lộ
–
Phụng
Hiệp,
hệ
thống
đê
bao
ngăn
lũ,
hệ
thống
cống
đập
ngăn
mặn,
và
gần
đây
là
nhiều
nhà
máy
nhiệt
điện
than
v.v.
Nếu
những
khoản
đầu
tư
này
được
cân
nhắc
một
cách
thấu
đáo
hơn,
ưu
tiên
cho
cơ
sở
hạ
tầng
giao
thông
trọng
yếu
của
toàn
Vùng
như
các
tuyến
đường
cao
tốc,
đường
liên
tỉnh
và
các
cây
cầu
huyết
mạch,
hay
hệ
thống
giao
thông
kết
nối
từ
vùng
sản
xuất
đến
đường
quốc
lộ,
thì
đến
nay
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
đã
có
một
hệ
thống
đường
bộ
phát
triển,
kết
nối
hiệu
quả
với
TP.HCM
và
vùng
Đông
Nam
bộ.
Như
vậy,
nút
thắt
hạ
tầng
giao
thông
tồn
tại
không
thuần
túy
là
do
thiếu
nguồn
lực
tài
chính,
mà
chủ
yếu
là
do
nguồn
lực
này
được
ưu
tiên
phân
bổ
cho
các
mục
đích
sử
dụng
khác
thay
vì
hệ
thống
kết
cấu
hạ
tầng
giao
thông.
13
–
Nút
thắt
phát
triển
thứ
hai
ở
ĐBSCL
là
nguồn
nhân
lực. Chất
lượng
nguồn
nhân
lực
là
nhân
tố
quyết
định
mức
sống
và
trình
độ
phát
triển
trong
dài
hạn
của
mỗi
cá
nhân,
của
từng
địa
phương
và
của
cả
quốc
gia.
Là
vùng
trũng
trong
cả
nước
về
giáo
dục
và
đào
tạo,
mô
hình
phát
triển
mới
của
ĐBSCL
phải
tìm
cách
tháo
gỡ
nút
thắt
quan
trọng
này
bằng
cách
thiết
kế
chính
sách
tạo
động
cơ
đi
học,
khắc
phục
tư
duy
ngắn
hạn
và
việc
theo
đuổi
lợi
ích
trước
mắt
khiến
các
gia
đình
cho
con
cái
bỏ
học
sớm
từ
cấp
THCS
và
PTTH.
Suy
đến
cùng,
động
cơ
này
chủ
yếu
phụ
thuộc
vào
khả
năng
tạo
lập
cơ
hội
việc
làm
để
người
dân
thấy
rõ
lợi
ích
của
kiến
thức
và
kỹ
năng,
từ
đó
có
động
cơ
mạnh
mẽ
để
theo
đuổi
việc
học
tập,
phát
triển
kỹ
năng,
nhờ
đó
tạo
sức
ép
từ
phía
cầu
để
kích
thích
hệ
thống
giáo
dục
–
đào
tạo
phát
triển
theo
hướng
liên
kết
với
các
doanh
nghiệp
và
gắn
kết
với
thị
trường
lao
động.
14
–
Cơ
chế
–
chính
sách
là
nút
thắt
thứ
ba cản
trở
sự
phát
triển
của
ĐBSCL.
Về
đất,
chính
sách
đất
đai
cần
được
thiết
kế
lại
theo
hướng
tạo
thị
trường
đất
linh
hoạt
hơn,
tăng
khả
năng
chuyển
dịch
đất
nông
nghiệp
trong
phạm
vi
các
lĩnh
vực
và
đối
tượng
sản
xuất
nông
nghiệp
sao
cho
đất
nông
nghiệp
có
thể
được
sử
dụng
hiệu
quả
nhất
(nhờ
đạt
quy
mô
hiệu
quả,
lựa
chọn
các
sản
phẩm
phù
hợp,
áp
dụng
phương
thức
canh
tác
tiên
tiến).
Về
nước,
coi
tất
cả
các
nguồn
nước
–
nước
ngọt,
nước
mặn,
nước
lợ,
nước
ngầm,
nước
mặt
v.v.
–
đều
là
tài
nguyên
quý
báu
để
có
chính
sách
quản
lý,
sử
dụng,
bảo
vệ
một
cách
phù
hợp.
Cần
nói
thêm
rằng
chỉ
trên
cơ
sở
bảo
vệ
được
tài
nguyên
đất
và
nước
thì
ĐBSCL
mới
có
thể
gìn
giữ
không
gian
sinh
tồn
của
mình,
nhờ
đó
phát
triển
cộng
đồng
và
bảo
tồn
văn
hóa
cùng
tôn
giáo
truyền
thống
hết
sức
đặc
sắc
của
vùng.
15
–
Một
trụ
cột
không
thể
thiếu
được
trong
mô
hình
phát
triển
mới
của
ĐBSCL là
cơ
chế
hợp
tác
và
điều
phối
Vùng
hiệu
lực
và
hiệu
quả
thay
cho
những
cơ
chế
mang
nặng
tính
hình
thức
và
không
có
tác
dụng
hiện
nay.
Một
thông
điệp
quan
trọng
của
Báo
cáo
này
là
những
thách
thức
lớn
nhất
ở
ĐBSCL
như
hệ
thống
kết
cấu
hạ
tầng
giao
thông
yếu
kém,
tụt
hậu
về
kinh
tế
và
giáo
dục,
môi
trường
nước
ô
nhiễm,
biến
đổi
khí
hậu
và
nước
biển
dâng,
bất
trắc
gây
ra
bởi
các
con
đập
thượng
nguồn
v.v.
là
thách
thức
của
toàn
vùng
chứ
không
của
riêng
một
địa
phương
nào
cả.
Vì
vậy,
để
giải
quyết
thách
thức
chung
của
toàn
vùng,
nhất
thiết
phải
có
một
cơ
chế
điều
phối
vùng
thật
sự
hiệu
lực
và
hiệu
quả.
Từ
góc
độ
quản
trị,
việc
các
nguồn
lực
kinh
tế
bị
phân
tán
–
hệ
quả
của
công
tác
phân
bổ
ngân
sách
và
quy
hoạch
có
tính
phân
mảnh
–
đã
ngăn
cản
hoạt
động
điều
phối
và
liên
kết
vùng.
Bên
cạnh
đó,
trong
khi
quy
hoạch
hay
chiến
lược
tổng
thể
vùng
rõ
ràng
là
mang
tính
khu
vực,
nhưng
việc
thực
hiện
nó
chủ
yếu
ở
cấp
tỉnh,
và
do
vậy
phụ
thuộc
vào
hệ
thống
thể
chế
và
quản
trị
hiện
tại
cũng
như
các
khuyến
khích
đi
kèm
của
nó.
Chẳng
hạn
như
chừng
nào
lãnh
đạo
của
một
tỉnh
được
đánh
giá
bằng
kết
quả
hoạt
động
của
riêng
tỉnh
đó
về
tăng
trưởng
GRDP,
đóng
góp
ngân
sách
cho
chính
quyền
trung
ương,
phát
triển
công
nghiệp,
thu
hút
FDI,
hay
kim
ngạch
xuất
khẩu,
v.v.
mà
hoàn
toàn
không
liên
quan
đến
kết
quả
hoạt
động
của
toàn
Vùng
thì
chừng
đó
các
tỉnh
vẫn
sẽ
tiếp
tục
xây
dựng
ồ
ạt
các
khu
công
nghiệp,
sân
bay,
cảng
biển
v.v.
với
chi
phí
cao
nhưng
hiệu
quả
thấp.
Nhóm
nghiên
cứu
VCCI
–
Fulbrigt
(Theo
Kỷ
yếu
Mekong
Connect
2020/Báo
cáo
kinh
tế
thường
niên
kế
tế
ĐBSCL)