“Đồng
Tháp
Mười
(ĐTM)
không
thể
trồng
lúa!”…
Trước
đây,
hai
giáo
sư
địa
chất
Liên
Xô
vào
nông
trường
Láng
Biển
lấy
mẫu
đất
phèn,
cùng
cỏ
năn,
cỏ
lác
đem
về
nước
phân
tích
rồi
kết
luận
chỉ
vì
thế
giới
có
12
triệu
ha
đất
nhiễm
phèn
điển
hình,
Việt
Nam
chiếm
gần
2
triệu
ha;
1,6
triệu
ha
trong
số
đó
tồn
tại
ở
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
(ĐBSCL).
Đất
phèn
ở
ĐBSCL
đặc
trưng
bởi
độ
acid
cao,
nồng
độ
độc
tố
sắt,
nhôm
cao
và
thiếu
lân.
Lừng
phèn,
xì
phèn
là
cách
nói
của
nông
dân
về
mối
nguy
không
tránh
khỏi
khi
vùng
đất
ngập
nước
(wetland)
lớn
nhất
Việt
Nam
bị
mất
nước,
suy
kiệt,
khô
hạn.
Khô
hạn
đang
đánh
thức
"con
quỷ"
phèn
đáng
sợ
của
ĐBSCL.
Ảnh:
Lê
Hoàng
Yến
Tiến
sĩ
Melforw,
chuyên
gia
về
đất
phèn
của
Hà
Lan,
từng
cảnh
báo:
“Muốn
xử
lý
1ha
đất
phèn
phải
tốn
cả
triệu
USD”.
Cuộc
chinh
phục
ĐTM
mất
40
năm.
“Chúng
ta
phải
làm,
nếu
có
mất
thì
chỉ
mất
một
phần
của
ba
tỉnh,
nếu
thành
công
thì
có
lợi
cho
cả
nước”,
phó
chủ
tịch
hội
đồng
Bộ
trưởng
Võ
Văn
Kiệt
(ông
Sáu
Dân)
nói
như
vậy
khi
theo
đuổi
cuộc
chiến
để
tách
ma
quỷ
ra
khỏi
ĐTM.
Ông
Sáu
Dân
đã
“trị
phèn”,
mở
rộng
khai
hoang
và
cuối
cùng
hy
sinh
hai
túi
trữ
nước
để
tạo
ra
700.000ha
đất
canh
tác
cho
ĐTM
và
hơn
470.000ha
khu
Tứ
giác
Long
Xuyên.
Hai
vùng
này
chiếm
40%
sản
lượng
lúa
của
ĐBSCL,
chưa
kể
các
loại
nông
sản
khác:
dưa
hấu,
khoai
mỡ,
khóm,
chanh,
thanh
long,
sen…
Các
loại
đất
phèn
tập
trung
tại
ĐTM,
Tứ
giác
Long
Xuyên,
phèn
nhiễm
mặn
tập
trung
vùng
ven
biển
và
trung
tâm
bán
đảo
Cà
Mau.
Nước
và
biện
pháp
kỹ
thuật,
công
trình
để
thau
chua,
rửa
phèn.
Mất
nước,
dậy
phèn…
“ma
quỷ”
đe
doạ
an
ninh
nguồn
nước,
an
toàn
lương
thực,
an
ninh
sinh
kế
–
kiềng
ba
chân
để
phát
triển
bền
vững
của
ĐBSCL.
Theo
uỷ
hội
Sông
Mekong,
do
sự
phát
triển
nhanh
về
công
nghiệp
và
nông
nghiệp,
các
nước
vùng
thượng
lưu
khiến
nhu
cầu
nước
từ
các
quốc
gia
vùng
thượng
nguồn
sông
Mekong
ngày
càng
tăng
nhanh,
dự
báo
đến
năm
2030
nhu
cầu
sẽ
tăng
lên
đến
35%.
Theo
PGS.TS
Võ
Công
Thành,
biện
pháp
thuỷ
lợi,
giống
ngắn
ngày
và
tính
toán
lại
mùa
vụ,
chọn
loại
cây
trồng
thích
ứng,
hiệu
quả
là
giải
pháp
để
sinh
tồn
và
phát
triển
cây
trồng
chứ
không
thể
đứng
đó
chờ
chết.
“Làm
công
tác
chọn
tạo
giống,
tôi
đã
định
hướng
nghiên
cứu
theo
ba
mảng
cho
giống
ngắn
ngày
chịu
mặn,
hạn,
phèn
mà
không
theo
hướng
chịu
ngập
vì
có
nước
đâu
mà
ngập.
Từ
những
giống
bản
địa
được
bảo
tồn,
phục
tráng,
phát
triển,
đi
theo
hướng
nâng
cao
chất
lượng
nữa
là
từ
việc
nâng
khả
năng
thích
ứng
những
biến
đổi
ngày
càng
bất
lợi,
cũng
sẽ
là
động
lực
để
mình
tính
toán
lại
không
chỉ
sinh
kế
mà
cả
yếu
tố
cạnh
tranh,
xây
dựng
thương
hiệu.
“ĐBSCL
điển
hình
là
phèn
nhiễm
mặn,
sắt
nhiều
làm
độ
pH
giảm
xuống;
sắt
tam
chuyển
qua
sắt
nhị
gây
ngộ
độc
cây
lúa
không
phát
triển
được.
Có
thể
tranh
thủ
bơm
nước
ngọt
vô
giữ
ẩm
sau
khi
thu
hoạch,
đừng
để
nứt
nẻ
sẽ
khó
rửa
mặn
sau
này,
nhưng
nước
ngọt
đâu
để
bơm?
TS
Thành,
tác
giả
những
giống
lúa
có
sức
chịu
được
hàm
lượng
sắt
ở
mức
2000
ppm,
tự
hiểu
thách
thức
lớn
từ
đâu
tới
và
không
chỉ
có
thiên
tai
mà
cả
nhân
tai
–
kẻ
muốn
hạ
độc
thủ
–
đã
tính
tới
“âm
binh
phèn
nhiễm
mặn”.
Giống
lúa
chịu
phèn,
thử
nghiệm
trên
giống
lúa
sổi,
một
bụi
đỏ,
nàng
hướt
biển…
ở
rốn
phèn
Mộc
Hoá,
Long
An
rất
thành
công,
năng
suất
6
tấn/ha
và
ông
bắt
đầu
chứng
minh
được
ưu
thế
của
tàu
hương
đột
biến
(giống
ở
Bến
Tre).
Giống
lúa
tròn
từ
tập
đoàn
giống
của
Nhật
Bản
do
một
Việt
kiều
giúp
vật
liệu
di
truyền
cũng
được
trồng
thử
nghiệm
tại
Mộc
Hoá,
khả
năng
chịu
phèn
rất
cao.
Theo
ông
Thành,
không
theo
đuổi
nghiên
cứu
phèn
trên
quy
mô
vùng,
quốc
gia
là
khoảng
hở
lớn
của
đầu
tư
nghiên
cứu
khoa
học.
Từ
trước,
chỉ
có
ĐH
Cần
Thơ,
với
sự
tài
trợ
của
Hà
Lan,
đã
xây
dựng
trung
tâm
Nghiên
cứu
đất
phèn
(VH10)
tại
Hoà
An.
Hết
kinh
phí,
các
nhà
khoa
học
tự
nghiên
cứu
trong
khi
chương
trình
quốc
gia
lại
không
quan
tâm,
dù
ai
cũng
biết
cả
đồng
bằng
này
nhiễm
phèn
từ
tạo
thiên
lập
địa,
tầng
sinh
phèn
tiềm
tàng,
chỉ
khác
nhau
ở
dạng
nặng
hay
nhẹ
mà
thôi.
Đã
có
nhiều
cá
nhân,
nhóm
nghiên
cứu
thuộc
các
viện
trường
ngoài
hệ
thống
của
bộ
Nông
nghiệp
và
phát
triển
nông
thôn,
nghiên
cứu
giải
pháp
cho
cây
trồng,
vật
nuôi,
trong
đó
có
giống,
làm
sao
khoanh
vùng
nghiên
cứu
triển
vọng
và
dồn
sức
đầu
tư,
giải
quyết
đồng
bộ
các
yêu
cầu
nghiên
cứu
để
phát
huy
mọi
nguồn
lực
giữ
vững
thế
mạnh
sản
xuất
của
ĐBSCL…
Ông
Thành
băn
khoăn:
“Làm
sao
cho
lứa
khoa
học
có
tuổi
như
chúng
tôi
đóng
góp
vào
việc
nuôi
dưỡng
công
trình
cho
sinh
tồn,
phát
triển”.