Ở
tỉnh
miền
Tây
xa
xôi
Sóc
Trăng,
một
doanh
nghiệp
cũng
đã
âm
thầm
nhập
robot
về
để
sản
xuất
bánh
pía,
một
đặc
sản
truyền
thống
nổi
tiếng
của
địa
phương.
Một
lãnh
đạo
tỉnh
này
kể,
có
vài
cơ
quan
chức
năng
băn
khoăn
vì
sao
doanh
nghiệp
lại
nhập
robot
về
sản
xuất
mà
không
tuyển
dụng
lao
động.
“Khi
chúng
tôi
tìm
hiểu,
vị
chủ
doanh
nghiệp
này
cho
biết,
sản
phẩm
của
họ
xuất
khẩu
sang
12
thị
trường
nước
ngoài
nên
đòi
hỏi
chất
lượng
vệ
sinh
rất
cao.
Vì
thế,
họ
không
sử
dụng
nhân
công”.
Tuy
nhiên,
vị
quan
chức
không
cho
biết
tên
doanh
nghiệp
này,
vì
doanh
nghiệp
đề
nghị
giấu
tên.
Hai
ví
dụ
rất
nhỏ
ở
trên
cho
thấy
cuộc
cách
mạng
công
nghiệp
4.0
bắt
đầu
hiện
diện
rõ
ràng
như
thế
nào
vào
đời
sống
ở
Việt
Nam.
Trên
nền
tảng
Internet,
người
dân
có
thể
đặt
vé,
thuê
khách
sạn,
check-in
tàu,
máy
bay,
trả
phí
tự
động,
đổi
bằng
lái
xe,
xin
cấp
hộ
chiếu
cho
đến
bán
hàng
qua
Internet
hay
thực
hiện
các
giao
dịch
Mobile
Banking.
Ở
góc
độ
toàn
cầu,
những
công
nghệ
đột
phá
của
cách
mạng
công
nghiệp
4.0
như
máy
in
3D,
người
máy
và
Internet
kết
nối
vạn
vật
đang
được
áp
dụng
nhanh
chóng
trong
nhiều
ngành
công
nghiệp.
Tạp
chí
The
National
Interest
trong
bài
Disrupting
Asia
cho
biết,
một
robot
có
giá
20.000
đô
la
Mỹ
hiện
nay
có
thể
lắp
ráp
30.000
chiếc
iPhone/năm,
như
vậy
giả
định
robot
hết
khấu
hao
trong
một
năm
thì
chi
phí
lắp
ráp
một
chiếc
iPhone
chỉ
khoảng
66
xu
Mỹ,
mức
chi
phí
thấp
đến
nỗi
khó
có
lao
động
giản
đơn
nào
có
thể
cạnh
tranh
được.
Đó
là
một
sự
thật
khi
đầu
năm
2016,
nhà
máy
Foxconn
ở
Côn
Sơn,
Trung
Quốc
chuyên
sản
xuất
linh
kiện
cho
các
hãng
Apple,
Samsung
đã
phải
cắt
giảm
60.000
nhân
công
trong
tổng
số
110.000
nhân
công
để
thay
bằng
robot,
theo
báo
chí.
Những
thực
tế
đó
đang
làm
đau
đầu
các
nhà
quản
lý
ở
Việt
Nam.
Cho
dù
Thủ
tướng
đã
ban
hành
Chỉ
thị
16
về
tăng
cường
năng
lực
tiếp
cận
cách
mạng
công
nghiệp
4.0,
chẳng
mấy
người
ở
Việt
Nam
biết
rõ
câu
chuyện
này.
“Cả
các
nhà
quản
lý
và
doanh
nghiệp
Việt
Nam
đều
đang
lo
lắng
với
cách
mạng
công
nghiệp
4.0
vì
cuộc
cách
mạng
này
ảnh
hưởng
tới
nhiều
lao
động.
Các
chuyên
gia
đánh
giá
hơn
80%
lao
động
sẽ
bị
ảnh
hưởng
trong
khi
Việt
Nam
lại
là
nước
đang
thâm
dụng
nhiều
lao
động”,
Thứ
trưởng
Bộ
Công
Thương
Đỗ
Thắng
Hải
thừa
nhận
trong
một
cuộc
họp
báo
tuần
trước
ở
Hà
Nội
để
giới
thiệu
về
Triển
lãm
quốc
tế
về
phát
triển
công
nghiệp
thông
minh
(Smart
Industry
World
2017)
lần
đầu
tiên
tổ
chức
tại
Việt
Nam
dưới
sáng
kiến
của
Ban
Kinh
tế
Trung
ương
Đảng.
Theo
Tổ
chức
Lao
động
quốc
tế
(ILO),
trong
ngành
giày
dép,
công
nghệ
in
3D
đã
tiến
bộ
đến
mức
có
thể
sản
xuất
giày
ngay
tại
chỗ,
và
công
nghệ
này
sẽ
sớm
được
hoàn
thiện
trong
một
tương
lai
không
xa.
Điều
này
có
nghĩa
là
người
tiêu
dùng
ở
các
nước
phát
triển
có
thể
có
ngay
một
đôi
giày
sản
xuất
theo
nhu
cầu
của
khách
hàng
mà
không
cần
phải
trải
qua
quy
trình
sản
xuất
hay
nhập
khẩu
từ
một
quốc
gia
khác.
Báo
cáo
“ASEAN
trong
chuyển
dịch
cơ
cấu:
Công
nghệ
đang
làm
việc
làm
và
doanh
nghiệp
thay
đổi
như
thế
nào”
của
ILO
công
bố
tháng
7-2016
dự
báo,
đến
86%
lao
động
trong
các
ngành
dệt
may
và
giày
dép
ở
Việt
Nam
có
nguy
cơ
cao
mất
việc
dưới
tác
động
của
những
đột
phá
về
công
nghệ
trên.
Một
nghiên
cứu
của
Trung
tâm
Phân
tích
và
Dự
báo,
Viện
Hàn
lâm
khoa
học
xã
hội
Việt
Nam
nhận
xét,
dự
báo
của
ILO
có
thể
gây
sốc.
Theo
đó,
ngành
dệt
may
đang
tạo
việc
làm
cho
2,3
triệu
người,
trong
đó
78%
là
lao
động
nữ;
ngành
giày
dép
đang
tạo
việc
làm
cho
gần
một
triệu
người
với
tỷ
lệ
74%
là
phụ
nữ.
Lao
động
trong
hai
ngành
này
chiếm
6,2%
tổng
lực
lượng
lao
động
và
13,7%
việc
làm
phi
nông
nghiệp.
Có
tới
17%
lao
động
trong
ngành
dệt
may
và
26%
lao
động
trong
ngành
giày
dép
chỉ
có
trình
độ
tiểu
học.
Đây
là
nhóm
không
dễ
dàng
tìm
được
việc
làm
thay
thế
ở
trong
khu
vực
chính
thức.
Nhóm
nghiên
cứu
cảnh
báo,
điều
này
cho
thấy
quá
trình
điều
chỉnh
sẽ
rất
khó
khăn,
và
có
thể
làm
đảo
ngược
quá
trình
chuyển
dịch
lao
động
ra
khỏi
nông
nghiệp
và
tăng
tỷ
trọng
của
khu
vực
chính
thức
trong
nền
kinh
tế.
Trong
một
bài
phân
tích
gửi
đến
Ban
Kinh
tế
Trung
ương
Đảng,
Phó
vụ
trưởng
Vụ
Tổng
hợp
kinh
tế,
Bộ
Ngoại
giao
Nguyễn
Hoài
Nam
đặt
hai
vấn
đề.
Thứ
nhất,
Việt
Nam
hiện
đang
tiến
hành
công
nghiệp
hóa
dựa
vào
xuất
khẩu
và
FDI
thâm
dụng
lao
động
có
kỹ
năng
thấp.
Trong
bối
cảnh
cách
mạng
công
nghiệp
4.0,
mô
hình
công
nghiệp
hóa,
hiện
đại
hóa
này
có
còn
phù
hợp
với
Việt
Nam
nữa
không?
Nếu
xuất
khẩu
và
FDI
thâm
dụng
lao
động
không
còn
là
động
lực
chính
nữa,
thì
sẽ
chọn
yếu
tố
gì
làm
động
lực
chính
cho
công
nghiệp
hóa,
hiện
đại
hóa
ở
Việt
Nam?
Thứ
hai,
muốn
tranh
thủ
được
cách
mạng
công
nghiệp
4.0,
trước
hết
cần
đặt
phát
triển
và
hội
nhập
quốc
tế
của
đất
nước
vào
dòng
chảy
của
cuộc
cách
mạng
này.
Do
đó,
vấn
đề
đặt
ra
là
Việt
Nam
sẽ
mạnh
dạn
đầu
tư
đi
thẳng
vào
những
ngành,
lĩnh
vực
gì
của
cách
mạng
công
nghiệp
4.0
để
bắt
nhịp
với
dòng
chảy
cuộc
cách
mạng
này?
Ông
Nam
cho
rằng,
hội
nhập
kinh
tế
sâu
rộng
hơn
cũng
đặt
ra
thách
thức
rất
lớn
về
đổi
mới,
cải
cách
trong
nước.
“Nếu
không
quyết
liệt
tái
cơ
cấu
kinh
tế,
đổi
mới
mô
hình
tăng
trưởng
đi
đôi
với
phát
triển
nguồn
nhân
lực
chất
lượng
cao
và
tăng
cường
năng
lực
khoa
học
-
công
nghệ,
nguy
cơ
tụt
hậu
là
rất
lớn”.
Chậm
đổi
mới
ngày
nào,
Việt
Nam
không
chỉ
bỏ
lỡ
thời
cơ
của
cách
mạng
công
nghiệp
4.0,
mà
có
thể
sẽ
gánh
chịu
hệ
quả
tiêu
cực
của
cuộc
cách
mạng
này
như
sa
lầy
ở
vị
trí
bất
lợi
trong
phân
công
lao
động
quốc
tế
mới
đang
hình
thành;
hứng
chịu
hệ
lụy
của
làn
sóng
di
chuyển
các
ngành/
công
nghệ
cũ,
tiêu
hao
nhiều
năng
lượng
và
không
thân
thiện
với
môi
trường
ra
bên
ngoài
do
nhiều
nước
đẩy
mạnh
tái
cơ
cấu
kinh
tế
gắn
với
đổi
mới
công
nghệ.
Ai
sẽ
trả
lời
những
câu
hỏi
đó?
Tất
nhiên
không
phải
là
Ân,
người
vẫn
đang
dùng
dịch
vụ
của
Grab
để
kiếm
sống
hàng
ngày,
và
tương
lai
vẫn
còn
bất
định
bởi
chính
quyền
vẫn
còn
đang
băn
khoăn
để
“quản
lý”
dịch
vụ
đó.
Việc làm ở Việt Nam sẽ bị tác động như thế nào? Báo cáo “ASEAN trong chuyển dịch cơ cấu: Công nghệ đang làm việc làm và doanh nghiệp thay đổi như thế nào” của ILO công bố tháng 7-2016 được thực hiện trên cơ sở khảo sát tại năm nước ASEAN là Campuchia, Philippines, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam đối với năm lĩnh vực gồm: sản xuất và lắp ráp ô tô; điện và điện tử; dệt may và giày da; kinh doanh thuê ngoài và bán lẻ. ILO kết luận, thời đại sử dụng công nghệ tự động hóa trong sản xuất đã trở thành một thực tế tại các nước ASEAN. Trong trường hợp Việt Nam, ILO dự báo, trong 10 năm tới, 70% số việc làm có rủi ro cao, 18% có rủi ro trung bình và 12% có rủi ro thấp. Rủi ro cao là có xác suất bị thay thế trên 70%; rủi ro trung bình có xác suất bị thay thế từ 30-70% và rủi ro thấp có xác suất bị thay thế dưới 30%. Có rủi ro được hiểu là những công việc có thể bị thay thế bằng các hệ thống, máy móc tự động hóa. Những ngành có rủi ro cao nhất bao gồm: nông, lâm và thủy sản (với 83,3% số việc làm có rủi ro cao); công nghiệp chế bến, chế tạo (74,4% số việc làm có rủi ro cao); bán buôn, bán lẻ (84,1% số việc làm có rủi cao). Ngay cả công việc trong lĩnh vực nông nghiệp truyền thống ở Việt Nam với đặc điểm là lao động thủ công và có tính lặp đi lặp lại cao cũng có nguy cơ bị thay thế bởi máy móc và thiết bị tự động. Những nghề có rủi ro cao là: trồng trọt (khoảng 13,7 triệu việc làm); chăn nuôi (gần 3,2 triệu việc làm); làm vườn (1 triệu việc làm); đánh bắt và nuôi trồng thủy sản (0,84 triệu việc làm)... |
Nguồn tin: TBKTSG Online
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang
truy
cập
:
48
Hôm
nay
:
11666
Tháng
hiện
tại
:
163083
Tổng
lượt
truy
cập
:
53666746