Quy
hoạch
tích
hợp
ĐBSCL
–
Góc
nhìn
từ
chuyên
gia
quốc
tế
(phần
1)
Thứ
tư
-
23/12/2020
21:40
Tính
dễ
tổn
thương
do
biến
đổi
khí
hậu
–
nước
biển
dâng
của
khu
vực
ĐBSCL
–
là
không
thể
“chống
lại”.
Cho
nên,
trước
xu
hướng
đó,
cần
phải
dựa
trên
các
kịch
bản
dự
báo
khác
nhau
để
lập
quy
hoạch
mới
và
có
hướng
đầu
tư
thích
ứng
theo
cách
“ít
hối
tiếc”
và
“không
hối
tiếc”.
Giám
đốc
quốc
gia
WB
tại
Việt
Nam,
bà
Carolyn
Turk
đề
xuất
và
đánh
giá:
Quy
hoạch
vùng
ĐBSCL
được
xây
dựng
dựa
trên
nguyên
tắc
bảo
vệ
người
dân,
cải
thiện
sinh
kế,
phát
triển
cân
bằng
và
bảo
vệ
môi
trường.
Ông
Ian
Hamilton,
chuyên
gia
đánh
giá
BĐKH,
đại
diện
Royal
Haskoning
DHV:
Thay
đổi
cơ
cấu
nông
nghiệp,
lấy
chất
lượng,
thu
nhập
làm
chỉ
tiêu
hiến
lược
quy
hoạch
vùng
ĐBSCL
được
thiết
kế
để
vừa
“quản
lý
thách
thức”
vừa
“tạo
ra
giá
trị”
nhắm
đến
mục
tiêu
bảo
vệ
người
dân,
cải
thiện
sinh
kế,
thúc
đẩy
sự
phát
triển
khu
vực
cân
bằng
hơn
và
cải
thiện
môi
trường.
Tầm
nhìn
tổng
thể
của
quy
hoạch
là
“cộng
đồng
thịnh
vượng
và
phát
triển,
cùng
nhau
biến
thách
thức
thành
cơ
hội,
sử
dụng
và
bảo
vệ
tài
nguyên
ĐBSCL”.
Để
đạt
được
điều
này,
cần
một
cách
tiếp
cận
tổng
hợp
nhằm
tối
đa
hóa
lợi
ích
đối
với
từng
trụ
cột
của
phát
triển
bền
vững
(kinh
tế,
xã
hội
và
môi
trường),
nhằm
nâng
cao
chất
lượng
cuộc
sống
của
vùng.
Do
đó,
có
4
yếu
tố
tổng
hợp
của
chiến
lược
phát
triển
vùng
là:
1
–
Nông
nghiệp:
Thúc
đẩy
và
hỗ
trợ
sản
xuất
số
lượng
lớn
cây
trồng
có
giá
trị
cao
hơn,
chất
lượng
tốt
dựa
trên
sự
phù
hợp
về
đất
đai
và
nguồn
nước,
bằng
cách
nới
lỏng
các
hạn
chế
sử
dụng
đất,
hỗ
trợ
nhiều
hơn
cho
nông
dân
và
thúc
đẩy
các
phương
thức
canh
tác
hiệu
quả
hơn,
bền
vững
hơn.
2
–
Các
trung
tâm
đầu
mối
nông
–
công
nghiệp:
Thu
gom
và
tổng
hợp
các
sản
phẩm
nông
nghiệp
và
thủy
sản
địa
phương
tại
các
cơ
sở
tiểu
vùng,
thông
qua
phát
triển
các
trung
tâm
chế
biến,
được
bố
trí
hợp
lý
ở
các
trung
tâm
tỉnh,
cùng
với
dịch
vụ
và
các
ngành
công
nghiệp
phụ
trợ
khác.
3
–
Giao
thông:
Cải
thiện
theo
từng
giai
đoạn
đường
bộ,
vận
tải
thủy
nội
địa
và
cảng,
cũng
như
hậu
cần
khu
vực
để
hỗ
trợ
các
trung
tâm
chế
biến
và
cải
thiện
khả
năng
tiếp
cận
tổng
thể
trong
khu
vực
để
mang
lại
lợi
ích
cho
các
ngành
khác
(bao
gồm
cả
công
nghiệp).
4
–
Quản
lý
nước
–
bảo
vệ
vùng
nước
ngọt
lõi
và
các
vùng
ven
biển,
cải
thiện
chất
lượng
nước
(đặc
biệt
liên
quan
đến
nông
nghiệp
và
nuôi
trồng
thủy
sản),
thích
ứng
với
biến
đổi
khí
hậu
và
quản
lý
rủi
ro
thiên
tai.
ĐBSCL
sản
xuất
khoảng
24
triệu
tấn
lúa
mỗi
năm.
Quy
hoạch
vùng
ĐBSCL
dự
kiến
giảm
lượng
lúa
còn
khoảng
16
triệu
tấn
vào
năm
2050,
trong
khi
vẫn
đáp
ứng
các
mục
tiêu
an
ninh
lương
thực
quốc
gia.
Sản
xuất
lúa
gạo
vẫn
sẽ
được
chú
trọng,
cùng
với
nuôi
trồng
thủy
sản
nước
ngọt,
trong
các
khu
vực
canh
tác
nhỏ
hơn
ở
phía
tây
bắc
của
vùng
có
thể
đảm
bảo
nước
ngọt
quanh
năm.
Điều
này
sẽ
cho
phép
nông
dân
trồng
các
loại
cây
khác
có
giá
trị
cao
hơn
–
chẳng
hạn
như
trái
cây
và
rau
–
và
cũng
có
thể
hưởng
lợi
từ
việc
mở
rộng
diện
tích
được
sử
dụng
để
nuôi
trồng
thủy
sản.
Theo
thời
gian,
tổng
diện
tích
trồng
lúa
trong
toàn
vùng
sẽ
giảm
từ
2,3
đến
1,4
triệu
ha.
Thay
đổi
cây
trồng
và
chế
biến
sẽ
tăng
thu
nhập
khoảng
11,4
tỷ
USD/năm
vào
năm
2030
và
21,1
tỷ
USD/năm
vào
năm
2050
(theo
giá
năm
2018).
Sự
chuyển
đổi
nông
nghiệp
này
đã
bắt
đầu
khi
nông
dân
nhận
thức
được
lợi
nhuận
từ
các
cây
trồng
khác
cao
hơn.
Diện
tích
trồng
lúa
đã
giảm
cả
trên
phạm
vi
cả
nước
và
trong
vùng
kể
từ
năm
2013
mặc
dù
năng
suất
tiếp
tục
tăng
do
đầu
vào
cho
sản
xuất
cũng
tăng
lên.
Trong
khi
đó,
sản
lượng
nuôi
trồng
thủy
sản
cả
nước
tăng
khoảng
67%
trong
giai
đoạn
2009
–
2019.
ĐBSCL
đóng
góp
70%
tổng
sản
lượng
gia
tăng
này.
Vùng
này
đang
sản
xuất
nhiều
trái
cây
và
rau
màu
hơn,
ví
dụ:
sản
lượng
khoai
lang
trong
vùng
đã
tăng
gấp
đôi
từ
năm
2009
–
2019
lên
khoảng
556.000
tấn,
chiếm
40%
tổng
sản
lượng
cả
nước
so
với
23%
trước
đây.
Chiến
lược
của
quy
hoạch
vùng
ĐBSCL
là
khuyến
khích
và
hỗ
trợ
nông
dân
trồng
các
loại
cây
có
giá
trị
kinh
tế
cao
hơn.
Đặc
biệt
là
ở
các
vùng
ranh
nước
lợ.
Điều
này
đòi
hỏi
các
tỉnh
phải
cho
phép
chuyển
đổi
mục
đích
sử
dụng
đất
khỏi
trồng
lúa
và
nông
dân
được
cung
cấp
đầy
đủ
dịch
vụ
hỗ
trợ
từ
trồng
trọt
đến
thu
hoạch;
sau
đó
liên
kết
họ
với
chế
biến
tại
địa
phương
để
đảm
bảo
mang
lại
nhiều
lợi
ích
hơn
từ
giá
trị
gia
tăng.
Cách
tiếp
cận
được
đề
xuất
về
quản
lý
tài
nguyên
nước
đi
ngược
lại
với
quy
hoạch
tài
nguyên
nước
hiện
tại,
vốn
hướng
tới
việc
mở
rộng
dần
vùng
nước
ngọt
vĩnh
viễn
theo
hướng
đông
nam
để
hỗ
trợ
nông
nghiệp
nước
ngọt
(tức
là
bằng
cách
xây
dựng
ngày
càng
nhiều
hệ
thống
đê
và
cống).
Vùng
ĐBSCL
cần
lấy
chất
lượng,
thu
nhập,
lợi
nhuận
ổn
định
làm
những
chỉ
tiêu
chính
thay
vì
chạy
theo
số
lượng.