Quy
hoạch
tích
hợp
ĐBSCL
–
Góc
nhìn
từ
chuyên
gia
quốc
tế
(phần
2)
Thứ
năm
-
24/12/2020
09:43
Ông
Koos
Neefjes,
cố
vấn
cao
cấp
về
BĐKH
–
đại
diện
Royal
Haskoning
DHV
–
Hà
Lan:
Phân
vùng
tài
nguyên
nước
Hệ
thống
đê
bao
rộng
khắp
đã
được
phát
triển
trong
nhiều
năm
qua
để
bảo
vệ
vùng
ven
sông
và
ven
biển
khỏi
lũ
lụt.
Sự
phát
triển
theo
tiếp
cận
quy
hoạch
này
phải
được
nhìn
nhận
trong
bối
cảnh
không
chắc
chắn
về
dòng
chảy
từ
thượng
nguồn
do
xây
dựng
đập
bên
ngoài
Việt
Nam
và
tác
động
ngày
càng
tăng
do
biến
đổi
khí
hậu.
Đặc
biệt
là
xâm
nhập
mặn.
Các
đề
xuất
của
Quy
hoạch
vùng
ĐBSCL
là
tạo
ra
4
vùng
tài
nguyên
nước
chính:
1
–
Vùng
nước
ngọt.
Vùng
nước
ngọt
vĩnh
viễn
sẽ
giảm
đáng
kể
nhưng
phải
đảm
bảo
cung
cấp
nước
ngọt
quanh
năm
cho
nông
dân
ở
phía
bắc
của
vùng
2
–
Vùng
nước
ngọt
lợ
xen
kẽ.
Vùng
này
sẽ
trở
nên
lớn
hơn.
Công
tác
quản
lý
sẽ
không
còn
tập
trung
vào
việc
cung
cấp
nước
ngọt
cho
nông
nghiệp
và
nuôi
trồng
thủy
sản
quanh
năm
mà
sẽ
quản
lý
mặn
và
chất
lượng
nước
tốt
hơn
phù
hợp
với
sự
biến
động
theo
mùa
và
nhu
cầu
của
nông
nghiệp
và
nuôi
trồng
thủy
sản
nước
ngọt
trong
khu
vực.
3
–
Vùng
ven
biển
mặn
lợ.
Khu
vực
này
sẽ
được
mở
rộng
để
tạo
điều
kiện
cho
nuôi
trồng
thủy
sản
có
lợi
nhuận
và
bền
vững
với
môi
trường.
Việc
phân
vùng
sẽ
hỗ
trợ
việc
áp
dụng
hệ
thống
quản
lý
chất
lượng
nước
lợ
có
hệ
thống
và
các
hệ
thống
quản
lý
nước
liên
quan
4
–
Vùng
biển.
Vùng
này
vẫn
được
giữ
nguyên
như
quy
hoạch
trước
đây,
nhưng
các
phương
thức
quản
lý
và
quy
định
phải
được
điều
chỉnh
để
đảm
bảo
tính
bền
vững
lâu
dài
của
các
dịch
vụ
hệ
sinh
thái
liên
quan
đến
nghề
cá
và
đa
dạng
sinh
học.
ĐBSCL
có
13
tỉnh
thành
–
với
mô
hình
chính
quyền
riêng
biệt
–
không
có
cơ
quan
quản
lý
quy
hoạch
chung
cả
vùng,
chưa
kể
một
số
tỉnh
thành
còn
tổ
chức
tiểu
vùng
khác
nhau.
Do
đó,
không
có
khung
pháp
lý
chính
thức
nào
để
điều
phối
các
dự
án
ngành
từ
các
Bộ
trên
cơ
sở
liên
tỉnh.
Hội
đồng
điều
phối
vùng
ĐBSCL
được
thành
lập
gần
đây,
không
chắc
được
giao
quyền
hạn
hay
ngân
sách
đầu
tư
vùng
để
thực
sự
phát
triển
các
dự
án
liên
tỉnh.
Để
hiện
thực
hóa
cách
tiếp
cận
tổng
hợp
trong
quy
hoạch
và
hoạch
định
chính
sách,
cần
phải
sửa
đổi
khung
pháp
lý
sao
cho
phù
hợp
với
Luật
Quy
hoạch,
trong
đó
đưa
quy
hoạch
vùng
vào
các
cấu
trúc
và
hệ
thống
chính
trị,
kế
hoạch
và
ngân
sách.
Tái
cơ
cấu
để
cho
phép
phân
quyền
nhiều
hơn
là
công
việc
phức
tạp
và
đòi
hỏi
ý
chí
chính
trị.
Chính
quyền
Trung
ương
sẽ
phải
phân
cấp
và
giao
một
số
quyền
hạn
cho
cấp
tỉnh
hoặc
cấp
khu
vực,
nhưng
vẫn
có
đủ
quyền
lực
để
chỉ
đạo
và
giám
sát
tiến
độ.
Quy
hoạch
vùng
ĐBSCL
sẽ
yêu
cầu
giám
sát
tiến
độ
và
cập
nhật
khi
cần
thiết.
Tốt
nhất,
quy
hoạch
nên
được
đánh
giá
giữa
kỳ
5
năm
một
lần,
đặc
biệt
là
để
đánh
giá
các
khoản
đầu
tư
của
kế
hoạch
5
năm
tới.
Về
trách
nhiệm,
các
cấp
chính
quyền
sẽ
đưa
ra
khuôn
khổ
và
định
hướng.
Tuy
nhiên,
điều
quan
trọng
là
Quy
hoạch
vùng
ĐBSCL
phải
được
hỗ
trợ
–
tham
gia
bởi
khu
vực
tư
nhân,
những
người
sẽ
đầu
tư
vào
các
trung
tâm
đầu
mối,
trung
tâm
hạ
tầng
dịch
vụ
và
mạng
lưới
giao
thông.
Ngoài
ra,
nông
dân
phải
được
thuyết
phục
về
việc
chuyển
đổi
nông
nghiệp
trong
khu
vực
của
họ
và
được
hỗ
trợ
đầy
đủ
để
họ
có
thể
thích
ứng
với
các
kỹ
thuật
và
yêu
cầu
thực
hành
mới.
Việc
khuyến
khích
đầu
tư
và
tham
gia
có
thể
đòi
hỏi
một
loạt
sáng
kiến
nằm
ngoài
phạm
vi
của
quy
hoạch
vùng,
bao
gồm
các
khuyến
khích
tài
chính
và
cách
tiếp
cận
khu
vực
để
tiếp
thị
và
thu
hút
đầu
tư
thích
hợp.
Hơn
mười
năm
qua,
tỷ
lệ
người
dân
lần
lượt
rời
bỏ
quê
nhà
ra
đi
tìm
kế
sinh
nhai
mới
cứ
gia
tăng
dần
theo
từng
năm
trong
các
thống
kê
mới
nhất
và
đã
trở
thành
một
hiện
tượng
xã
hội,
vì
nguồn
lao
động
trẻ
trong
vùng
đang
thiếu
hụt
rất
đáng
lo
ngại.
Ngay
cả
năng
suất
và
sản
lượng
lúa
và
cá
da
trơn
đường
như
đã
đạt
đến
ngưỡng
giới
hạn
lớn
nhất
về
mặt
sinh
học
nhưng
sức
khỏe
lớp
thổ
nhưỡng,
kể
cả
các
vi
sinh
vật
hữu
ích
trong
đất,
đang
suy
kiệt
dần,
cho
dù
có
đủ
phân
bón
hóa
học
vẫn
được
người
nông
dân
tiếp
tục
gia
tăng
bỏ
xuống
đồng
ruộng.
Thực
chất,
các
dinh
dưỡng
trong
đất
nuôi
cho
cây
là
một
quá
trình
tích
lũy
hằng
trăm
năm,
hàng
ngàn
năm
từ
những
hạt
phù
sa
do
dòng
nước
nổi
hằng
năm
bồi
tụ,
nhưng
chỉ
vài
thập
kỷ
khai
thác
kiểu
thâm
canh
tăng
vụ,
chúng
ta
đã
cưỡng
bức
rút
hết
nỗ
lực
bồi
đắp
của
thiên
nhiên,
mà
không
tạo
điều
kiện
cho
đất
nghỉ
ngơi,
hồi
phục.
Đã
đến
lúc
chúng
ta
nhận
thấy
chính
sách
can
thiệp
thô
bạo
vào
tự
nhiên
để
bắt
nguồn
lợi
đất,
nước
và
vi
sinh
vật
hữu
ích
cho
mục
tiêu
tăng
số
lượng
lương
thực,
chủ
yếu
là
lúa
gạo,
không
còn
ý
nghĩa,
đặc
biệt
trong
bối
cảnh
các
tác
động
bất
lợi
của
hiện
tượng
biến
đổi
khí
hậu
và
nước
biển
dâng
ngày
một
rõ
rệt
và
gia
tăng
cả
tần
số
và
cường
độ
theo
dạng
biến
động
thời
tiết
và
thiên
tai
cực
đoan.
Thêm
vào
đó,
sự
hình
thành
chuỗi
các
dự
án
đập
–
hồ
chứa
thủy
điện
trên
cả
dòng
chính
và
dòng
nhánh
ở
thượng
nguồn,
đặc
biệt
tập
trung
ở
Trung
Quốc
và
Lào
khiến
dòng
phù
sa
giảm
sút
đe
dọa
lớn
đến
sự
ổn
định
nền
và
gia
tăng
biến
dạng,
xói
lở
bờ
sông,
lòng
dẫn
và
vùng
bờ
dọc
ven
biển.
Tóm
lại,
ba
đe
dọa
lớn
thách
thức
sự
phát
triển
bền
vững
của
vùng
châu
thổ
chính
gồm
hai
yếu
tố
ngoại
vi
là
biến
đổi
khí
hậu
và
chuỗi
đập
thủy
điện
ở
thượng
nguồn
và
một
yếu
tố
nội
tại
do
các
hoạt
động
của
con
người
ở
chính
bên
trong
đồng
bằng.
Ba
yếu
tố
cùng
tác
động,
nếu
không
có
giải
pháp
hữu
hiệu
để
hạn
chế
thì
nguy
cơ
đảo
lộn
tiến
trình
kiến
tạo
đồng
bằng
sẽ
trở
thành
quá
trình
biến
dạng
và
tan
rã
vùng
đất
thấp
trũng
về
mặt
địa
hình,
phẳng
gần
như
đồng
nhất
về
mặt
địa
mạo
và
non
yếu,
rời
rạc
về
mặt
địa
chất.
Vùng
châu
thổ
Cửu
Long
phải
chuyển
mình
dưới
những
tác
động
thay
đổi
bất
lợi,
cần
phải
có
những
cải
cách
về
cơ
cấu
kinh
tế,
cải
tổ
chính
sách
đầu
tư
song
hành
với
các
yêu
cầu
chuyển
đổi
hệ
thống
sản
xuất
theo
hướng
thuận
thiên,
xem
trọng
tất
cả
các
nguồn
tài
nguyên
nước
ngọt,
nước
lợ
và
nước
mặn.
Bất
kỳ
quyết
định
gì
cho
vùng
châu
thổ
từ
nay
và
trong
tương
lai
cũng
phải
xem
xét
đến
các
yếu
tố
chọn
lựa
theo
nguyên
tắc
“không
hối
tiếc”
hoặc
“ít
hối
tiếc”.
Bài
học
vội
vã
áp
đặt
các
quyết
định
duy
ý
chí
chủ
quan,
thiếu
xem
xét
các
tác
động
sinh
thái
lâu
dài
trong
quá
khứ
đã
để
lại
những
hệ
quả
mà
việc
khắc
phục
bây
giờ
rất
khó
khăn.
Các
hệ
sinh
thái,
tính
đa
dạng
sinh
học
về
loài
thực
và
động
vật
phải
được
bảo
tồn,
phục
hồi
và
mở
rộng
trở
lại.
Điều
này
sẽ
thúc
đẩy
và
tạo
điều
kiện
tốt
cho
việc
chống
đỡ
thiên
tai,
hạn
chế
các
tác
động
bất
lợi
của
khí
hậu
mà
còn
thúc
đẩy
sự
trở
lại
tốt
hơn
cho
môi
trường
sống.
Đây
là
tiền
đề
và
xem
như
là
các
yếu
tố
hạ
tầng
xanh,
thúc
đẩy
cho
các
hoạt
động
du
lịch
tự
nhiên
và
tạo
nên
động
lực,
tăng
tính
hấp
dẫn
cho
các
nguồn
đầu
tư.
Các
dòng
ngân
sách
quốc
gia
cần
phải
gia
tăng
đầu
tư
cho
vùng
châu
thổ,
nên
đặt
ưu
tiên
cho
các
hệ
thống
giao
thông,
cầu
đường
hiện
đại
vốn
rất
yếu
kém
nhiều
năm
qua.
Việc
phục
hồi,
lưu
trữ
và
hấp
thụ
các
nguồn
tài
nguyên
nước
mưa
và
nước
lũ,
giảm
dần
sử
dụng
nước
ngầm
là
một
chiến
lược
cần
quan
tâm.
Điều
này
bảo
đảm
cho
vấn
đề
cấp
nước
sinh
hoạt
an
toàn,
kể
cả
một
phần
nào
đó
dành
cho
chăn
nuôi,
cây
trái,
và
hoa
màu,
đặc
biệt
cho
vùng
ven
biển
vào
mùa
khô
hạn
và
nước
mặn
xâm
nhập
sâu.
Trong
chiến
lược
vươn
tầm
cho
vùng
châu
thổ
theo
hướng
phát
triển
bền
vững,
ngoài
việc
vận
động
chính
sách
cải
tổ
phù
hợp
cho
hệ
thống
quản
trị
đồng
bằng
theo
một
tầm
vĩ
mô
thì
ở
các
tầm
vi
mô
ở
đơn
vị
nhỏ
hơn
đến
từng
nông
hộ,
người
nông
dân
cũng
phải
chuyển
mình
theo
các
thay
đổi
với
sự
đồng
hỗ
trợ
của
các
tổ
chức
xã
hội,
các
nhà
khoa
học
và
doanh
nghiệp.
Người
nông
dân
không
chỉ
là
người
sản
xuất
nông
nghiệp
thuần
túy
như
bao
đời
nay,
mà
họ
phải
dần
dần
trở
thành
những
nhà
nông
doanh
(agro-businessmen).
Vấn
đề
này
không
thể
một
sớm
một
chiều
để
biến
một
người
chỉ
biết
trồng
lúa
thâm
canh
thành
một
người
biết
canh
tác
đa
canh,
nắm
bắt
thị
trường,
biết
gia
tăng
giá
trị
hàng
nông
sản
và
thích
ứng
tốt
các
diễn
biến
bất
lợi
của
thời
tiết
–
thiên
tai.
Bao
giờ
cũng
vậy,
chuyển
mình
thay
đổi
trong
các
thử
thách
là
một
quá
trình
lột
xác
với
nhiều
đau
đớn,
rủi
ro.
Việc
quan
tâm
đến
các
nhóm
yếu
thế
trong
xã
hội
để
họ
có
một
điều
kiện
sống
tốt
hơn,
tư
vấn
cho
họ
những
quyết
định
hợp
lý
và
tạo
điều
kiện
tốt
cho
họ
trụ
được
trong
thử
thách,
cũng
là
một
tinh
thần
của
ý
nghĩa
“không
để
bất
kỳ
ai
bị
bỏ
lại”
mà
Liên
Hiệp
Quốc
đã
kêu
gọi
các
quốc
gia
lưu
ý
trong
việc
phát
triển
bền
vững.
Vùng
châu
thổ
sông
Cửu
Long
phải
tiếp
tục
được
tồn
tại
và
phát
triển
vì
một
tương
lai
phồn
thịnh,
an
toàn
và
bền
vững
hơn,
đồng
hành
với
các
tiến
bộ
khoa
học
và
công
nghệ.