Lãnh
đạo
một
thành
viên
lớn
cho
biết,
dư
nợ
cho
vay
đầu
tư,
kinh
doanh
chứng
khoán
của
ngân
hàng
mình
chốt
năm
qua
rất
thấp,
không
đáng
kể.
“Cơ
chế
hiện
cho
phép
cho
vay
nhiều
hơn,
nhưng
đây
không
phải
là
mảng
chúng
tôi
đẩy
mạnh.
Mức
độ
thế
nào
còn
tùy
thuộc
vào
khẩu
vị
của
mỗi
ngân
hàng”,
vị
lãnh
đạo
trên
giải
thích.
Ngân
hàng
trên
tự
quyết,
đơn
giản
với
lựa
chọn
của
mình.
Nhưng
với
cả
một
chính
sách,
áp
lực
đến
từ
nhiều
phía,
nhất
là
khi
liên
quan
đến
các
nhóm
lợi
ích
khác
nhau,
việc
lựa
chọn/thậm
chí
áp
đặt
để
định
hướng
là
không
đơn
giản.
Sức
ép
lớn
dần
Một
tháng
sau
khi
Ngân
hàng
Nhà
nước
ban
hành
Thông
tư
36,
những
nghi
ngại
trên
thị
trường
chứng
khoán
mới
thực
sự
thể
hiện.
Gần
nửa
cuối
tháng
12/2014,
thị
trường
chứng
khoán
có
những
phiên
giảm
mạnh,
nhà
đầu
tư
nước
ngoài
bán
ròng,
công
ty
chứng
khoán
dè
chừng…
Chung
quy
được
nhiều
thông
tin
gắn
với
lý
do
tác
động
của
thông
tư
trên,
quy
định
mới
về
cho
vay
đầu
tư,
kinh
doanh
chứng
khoán.
Thậm
chí,
một
số
phân
tích
và
bình
luận
cho
rằng
thị
trường
“sốc”
và
“tràn
ngập
nỗi
lo”
với
Thông
tư
36
-
siết
vốn
đòn
bẩy
vào
chứng
khoán.
Và
cũng
mãi
một
tháng
sau,
Hiệp
hội
Kinh
doanh
chứng
khoán
mới
có
văn
bản
kiến
nghị
giãn
lộ
trình
thực
hiện.
Thế
rồi
đại
diện
nhóm
chuyên
gia
cố
vấn
cho
Thủ
tướng
mới
đề
nghị
xem
xét
và
làm
việc
với
Ngân
hàng
Nhà
nước.
Thông
tư
36
đã
được
chuẩn
bị
từ
hơn
hai
năm
trước,
đã
có
nhiều
cuộc
hội
thảo,
trao
đổi
với
đại
diện
các
ban
ngành
liên
quan,
với
đại
diện
các
thành
viên
thị
trường,
nhưng
đến
khi
chính
thức
ban
hành
và
sắp
hiệu
lực
thì
mới
nảy
sinh
như
vậy.
Điểm
chung,
quan
ngại
đưa
ra
là
cơ
chế
mới
làm
giảm
nguồn
vốn
ngân
hàng
rót
vào
lĩnh
vực
này,
sẽ
“tác
động
lớn”
tới
thanh
khoản
thị
trường,
thay
đổi
chính
sách
đột
ngột
ảnh
hưởng
tâm
lý
và
niềm
tin
nhà
đầu
tư…
Trong
khi
đó,
thị
trường
chứng
khoán
là
kênh
để
dẫn
vốn
cho
doanh
nghiệp,
tránh
bị
tổn
thương.
Đi
sâu
hơn
nữa,
Thông
tư
36
được
cho
là
“siết”
vốn
vào
chứng
khoán
lại
ra
đời
vào
thời
điểm
nhạy
cảm,
tạo
một
“lực
cản”
vô
hình
đối
với
quá
trình
cổ
phần
hóa
các
doanh
nghiệp
nhà
nước
và
yêu
cầu
thoái
vốn
đầu
tư
ngoài
ngành
ngay
trong
năm
cao
điểm
2015.
Với
những
lý
do
trên,
trước
phản
ứng
của
thị
trường,
trước
kiến
nghị
và
ý
kiến
của
của
các
đầu
mối
liên
quan,
thì
xem
ra,
sức
ép
xem
xét
điều
chỉnh
đang
dồn
về
Ngân
hàng
Nhà
nước.
Bản
lĩnh
của
chính
sách
Như
ý
kiến
của
lãnh
đạo
ngân
hàng
thương
mại
trên,
việc
đẩy
mạnh
cho
vay
hay
không
tùy
vào
khẩu
vị
của
mỗi
nhà
băng.
Khẩu
vị
của
chính
sách
cũng
đã
thể
hiện
trong
Thông
tư
36,
qua
việc
giảm
mạnh
hệ
số
rủi
ro
cho
vay
đầu
tư
và
kinh
doanh
chứng
khoán
từ
250%
xuống
còn
150%.
Vậy,
có
gì
đó
không
nhất
quán
khi
đưa
ra
giới
hạn
“siết”
cho
vay
như
các
ý
kiến,
phân
tích
gần
đây.
Theo
đó,
nếu
tại
buổi
làm
việc
với
các
bên
hôm
nay,
Ngân
hàng
Nhà
nước
tính
điều
chỉnh
lại
để
có
sự
nhất
quán
thì
có
vẻ
thuận.
Giả
sử
nếu
đáp
ứng
các
kiến
nghị,
cơ
quan
này
cũng
sẽ
không
khó
“ghi
điểm”
với
các
thành
viên
trên
thị
trường
chứng
khoán,
có
thể
còn
rộng
hơn.
Thế
nhưng,
liệu
một
lần
nữa
Ngân
hàng
Nhà
nước
lại
phải
điều
chỉnh,
sau
khi
chính
sách
lớn
vừa
ra
đời
mà
chưa
kịp
có
hiệu
lực?
Câu
hỏi
này
trở
nên
“nhạy
cảm”
và
khó
xử,
bởi
nó
liên
quan
đến
tầm
nhìn,
bản
lĩnh
và
cả
thương
hiệu
của
nhà
làm
chính
sách.
Trước
đó,
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
phải
hai
lần
giãn
lộ
trình,
sửa
đổi
bổ
sung
một
chính
sách
quan
trọng
khác
là
Thông
tư
02
(về
phân
loại
nợ
và
trích
lập
dự
phòng)
khi
nó
chưa
có
hiệu
lực.
Xa
hơn,
một
số
văn
bản
lớn
cùng
lĩnh
vực
trước
đây
cũng
đã
từng
chịu
áp
lực
phải
sửa.
Nếu
thêm
lần
này
nữa,
với
Thông
tư
36,
rõ
ràng
là
khó
xử
và
nhạy
cảm.
Liệu
khi
mong
muốn
và
triển
khai
các
bước
chấn
chỉnh
an
toàn
hệ
thống,
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
tính
rốt
ráo
các
tác
động
hay
chưa,
nhất
là
khi
liên
quan
đến
các
nhóm
lợi
ích...
Dĩ
nhiên,
việc
đặt
giới
hạn
cho
vay
tối
đa
5%
vốn
điều
lệ
trong
Thông
tư
36
đã
được
cân
đong,
tính
toán.
Điều
đó
có
nghĩa,
một
sự
vượt
quá
sẽ
ảnh
hưởng
đến
an
toàn
hệ
thống
-
đối
tượng
chính
trong
quản
lý
của
Ngân
hàng
Nhà
nước.
Nhưng,
giới
hạn
này
liên
quan
đến
các
nhóm
lợi
ích
khác
ngoài
hệ
thống
các
ngân
hàng
thương
mại.
Vậy
nên,
số
phận
của
giới
hạn
đó
dù
đã
ban
hành
nhưng
chưa
yên
ổn.
Trong
khi
đó,
bên
cạnh
tính
độc
lập
và
kỷ
luật
trong
hoạch
định
chính
sách,
nếu
có
quá
nhiều
tình
huống
phải
sửa
đổi,
điều
chỉnh
ngay
cả
khi
chưa
có
hiệu
lực,
thì
có
hai
trường
hợp
đặt
ra:
một
là
chất
lượng
hoạch
định
có
vấn
đề,
hai
là
chấp
nhận
thương
hiệu
và
bản
lĩnh
chính
sách
bị
ảnh
hưởng.
Còn
với
thị
trường,
với
các
chủ
thể
liên
quan,
dù
chính
sách
đã
ban
hành,
nhưng
họ
vẫn
đang
phải
sống
chung
với
một
thông
điệp
bị
nhiễu,
hoặc
chưa
thực
sự
rõ
ràng
(do
chưa
rõ
có
sửa
đổi,
điều
chỉnh
hay
không).
Theo Minh
Đức