Hạn
chế
tốc
độ
tối
đa
là
cần
thiết.
Nhưng
trong
nhiều
tình
huống,
việc
khống
chế
quá
thấp
so
với
điều
kiện
an
toàn
thực
tế
có
thể
khiến
giao
thông
kém
thông
suốt,
gây
mất
thời
gian
và
cả
chi
phí
cho
người
tham
gia.
Điều
kiện
đã
thay
đổi
Hoạt
động
ngân
hàng
cũng
vậy.
Việc
nặng
vốn
ứ
đọng
trong
bối
cảnh
vừa
chạy
vừa
nhấn
chặt
phanh
cũng
gây
tốn
kém
chi
phí
nhiên
liệu,
hiệu
quả
hoạt
động
cũng
kém
đi.
Suốt
một
thời
gian
dài
và
cho
đến
nay,
vốn
huy
động
của
các
ngân
hàng
thương
mại
chủ
yếu
là
ngắn
hạn,
chiếm
từ
80-90%
cơ
cấu.
Trong
khi
nhu
cầu
vay
của
nhiều
doanh
nghiệp
là
trung
và
dài
hạn.
Giới
hạn
được
sử
dụng
tối
đa
30%
nguồn
vốn
ngắn
hạn
cho
vay
trung
dài
hạn
là
một
chốt
chặn,
rồi
trở
thành
một
nút
thắt.
Trong
bối
cảnh
hiện
nay,
giới
hạn
đó
được
xem
là
những
biển
báo
tốc
độ
khiến
nguồn
vốn
càng
khó
thông
suốt,
ùn
tắc
và
nặng
chi
phí.
Cỗ
máy
ngân
hàng
muốn
thoáng
hơn,
nên
một
sự
giải
phóng/được
tăng
ga
theo
giới
hạn
mới,
dĩ
nhiên
là
họ
“sướng”.
Với
các
nhu
cầu
vay
vốn
trung
dài
hạn,
có
thêm
nguồn
cung
để
đáp
ứng,
cũng
là
đáng
mừng.
Cho
nên,
việc
Ngân
hàng
Nhà
nước
ban
hành
Thông
tư
36
(quy
định
các
giới
hạn,
tỷ
lệ
an
toàn
trong
hoạt
động
của
tổ
chức
tín
dụng)
nới
giới
hạn
sử
dụng
vốn
ngắn
hạn
cho
vay
trung
dài
hạn
từ
30%
lên
tới
60%
được
giới
ngân
hàng
và
một
số
chuyên
gia
ủng
hộ.
Cơ
sở
ủng
hộ
là
các
ngân
hàng
có
điều
kiện
để
giải
phóng
vốn
tốt
hơn,
doanh
nghiệp
có
cơ
hội
để
vay
vốn
trung
dài
hạn
nhiều
hơn,
thêm
cung
-
giá
giảm
để
bớt
chi
phí
lãi
suất
cũng
là
mối
liên
hệ
tích
cực.
Hầu
hết
các
phân
tích,
lý
giải
và
ghi
nhận
sau
khi
Thông
tư
36
ra
đời
chủ
yếu
ủng
hộ
vì
hướng
đến
những
giá
trị
đó.
Tuy
nhiên,
tương
tự
như
trường
hợp
chỉ
đạo
của
Bộ
trưởng
Thăng
ở
trên,
có
lẽ
đó
không
phải
là
lý
do
để
Ngân
hàng
Nhà
nước
phải
thay
biển
báo
giới
hạn
tốc
độ.
Không
vì
người
tham
gia
giao
thông
muốn
chạy
nhanh
hơn
mà
nới
giới
hạn
tốc
độ.
Không
vì
các
nhà
băng
muốn
sử
dụng
vốn
thoáng
hơn,
doanh
nghiệp
muốn
vay
vốn
trung
dài
hạn
nhiều
hơn
mà
nới
chốt
chặn.
Mấu
chốt
ở
đây,
là
các
điều
kiện
đảm
bảo
an
toàn
đã
thay
đổi.
Sau
khi
xử
lý
xong
bất
ổn
thanh
khoản
cuối
2011,
gần
ba
năm
qua
và
cho
đến
nay
huy
động
vốn
hệ
thống
liên
tục
tăng
trưởng
cao;
quan
trọng
hơn
là
kết
cấu
nguồn
vốn
có
được
sự
ổn
định
cần
thiết,
dù
phần
lớn
vẫn
là
cấu
phần
ngắn
hạn.
Đây
là
điều
kiện
tiên
quyết
để
Ngân
hàng
Nhà
nước
xem
xét
điều
chỉnh.
Cũng
như
ở
một
điều
chỉnh
khác,
không
thể
giải
thích
vì
muốn
hỗ
trợ
cho
vay
đầu
tư
chứng
khoán,
bất
động
sản,
vì
các
chủ
thể
ở
hai
lĩnh
vực
này
đòi
hỏi
mà
Ngân
hàng
Nhà
nước
hạ
hệ
số
rủi
ro
từ
250%
xuống
150%;
mà
do
đánh
giá
mức
độ
rủi
ro
đã
khác
so
với
thời
kỳ
nóng
sốt
trước
đây
để
có
điều
chỉnh
hợp
lý
hơn.
“Nghệ
thuật”
dụng
vốn
Trong
lần
trao
đổi
với
VnEconomy
mới
đây,
TS.
Lê
Thẩm
Dương,
Trưởng
khoa
Quản
trị
kinh
doanh
Đại
học
Ngân
hàng
Tp.HCM,
khái
quát
rằng:
“Việc
sử
dụng
vốn
ngắn
hạn
cho
vay
trung
dài
hạn
là
cả
một
nghệ
thuật!”.
Ông
nhìn
nhận,
thực
tế
hoạt
động
của
hệ
thống
ngân
hàng
Việt
Nam
thời
gian
qua
cho
thấy
chưa
có
nhiều
thành
viên
giỏi
với
“nghệ
thuật”
này.
Một
phần
do
còn
những
hạn
chế
nhất
định
trong
quản
trị,
điều
hành
và
đặc
thù
thị
trường.
Sắp
tới,
khi
Thông
tư
36
có
hiệu
lực,
giới
hạn
được
tăng
gấp
đôi,
từ
30%
lên
60%,
sẽ
là
điều
kiện
để
những
ngân
hàng
có
nền
tảng
vốn
tốt,
có
năng
lực
quản
trị
rủi
ro
tốt
khai
thác
lợi
thế
“nghệ
thuật”
của
mình.
Nhưng
thận
trọng
cũng
không
thừa.
Cũng
như
so
sánh
ở
ngạch
giao
thông,
chuyện
mát
ga
và
“lãng
mạn
thi
ca”
trên
tuyến
cao
tốc
Nội
Bài
-
Lào
Cai
mà
Bộ
trưởng
Thăng
từng
ví
von
là
có
thực,
nhưng
cũng
đã
có
những
rủi
ro,
ngoài
thiết
kế
và
quy
định,
khi
xử
lý
xe
ở
tốc
độ
cao
trước
vật
cản
đột
ngột
qua
đường.
Vật
cản
đột
ngột
trong
sử
dụng
vốn
ngắn
hạn
cho
vay
trung
dài
hạn
dường
như
mờ
nhạt
trong
quãng
êm
đềm
thanh
khoản
các
ngân
hàng
hiện
nay.
Thế
nhưng,
chỉ
cần
thị
trường
chứng
khoán
bùng
nổ,
giá
vàng
nổi
sóng
hay
cú
sốc
bất
ngờ
của
tỷ
giá…
đều
có
thể
khiến
ngân
hàng
liệng
tay
lái
nếu
chạy
tốc
độ
cao
(60%
là
một
tỷ
lệ
cao).
Trong
khi
đó
kết
cấu
vốn
huy
động
không
hẳn
luôn
bền
vững.
Phần
lớn
hiện
nay
là
vốn
ngắn
hạn,
độ
lỏng
của
nó
lại
gắn
với
sự
năng
động
và
linh
hoạt
hơn
trong
sử
dụng
vốn
của
dân
cư.
Ngược
lại,
sự
gắn
kết
của
lãi
suất
đối
với
dòng
tiền
gửi
không
còn
mặn
mà
như
trước.
Cũng
lưu
ý
rằng,
những
năm
trước,
nếu
vốn
chảy
sang
vàng,
ngân
hàng
không
quá
lo
lắng
vì
nó
vẫn
là
một
cấu
phần
được
dùng
để
kê
thanh
khoản
(cao
điểm
từng
lên
tới
khoảng
100
tấn),
thì
nay
vàng
đã
bị
loại
khỏi
bảng
cân
đối
và
nằm
trong
két
người
dân.
Nếu
tình
huống
liệng
tay
lái
xẩy
ra,
có
chuyên
gia
trấn
an
rằng
đã
có
Ngân
hàng
Nhà
nước
sẽ
thực
hiện
tốt
vai
trò
của
ngân
hàng
mẹ,
thực
hiện
tốt
chức
năng
người
cho
vay
cuối
cùng.
Trấn
an
trên
có
phần
chưa
đủ
trách
nhiệm.
Bởi
để
hệ
thống
rơi
vào
tình
huống
phải
can
thiệp
thanh
khoản,
thì
trước
đó
chắc
chắn
đã
có
những
cái
giá
phải
trả,
cụ
thể
nhất
là
biến
động
lãi
suất
(và
những
hệ
lụy
liên
quan).
Mặt
khác,
điều
tối
kỵ
trong
điều
hành
là
Ngân
hàng
Nhà
nước
để
lọt
tình
huống
thả
gà
ra
đuổi,
nới
điều
kiện
để
rồi
vì
nó
mà
phải
can
thiệp.
Vậy
nên,
khi
hạ
tầng
giao
thông
đã
cải
thiện,
tốc
độ
tối
đa
từ
30
km/h
được
mát
ga
hơn
với
60
km/h,
nhưng
cũng
cần
chú
ý
các
điều
kiện
khác:
chất
lượng
xe
của
anh
có
tải
được
tốc
độ
đó
không,
hệ
thống
phanh
đảm
bảo
an
toàn
hay
không,
có
được
đăng
kiểm
chặt
chẽ
hay
không,
tầm
nhìn
và
năng
lực
làm
chủ
tốc
độ
của
anh
như
thế
nào…
Cho
nên,
cùng
với
việc
thay
“biển
báo
tốc
độ”,
Ngân
hàng
Nhà
nước
cũng
chỉnh
lại
những
điều
kiện
liên
quan
về
xác
định
thế
nào
là
vốn
ngắn
hạn,
nâng
yêu
cầu
về
tỷ
lệ
khả
năng
chi
trả
trong
30
ngày
(từ
15%
lên
50%),
cùng
đó
là
giới
hạn
cho
vay
trên
huy
động
khống
chế
ở
mức
80%...
để
kiểm
soát
rủi
ro.
Và
hơn
hết
vẫn
là
sự
chủ
động
kiểm
soát
rủi
ro,
“nghệ
thuật”
sử
dụng
vốn
ngắn
hạn
cho
vay
trung
dài
hạn
của
mỗi
ngân
hàng
thương
mại.
Bởi
chính
họ
đã
từng
nếm
trải,
nhiều
trường
hợp
đã
phải
trả
giá
đắt,
với
khó
khăn
thanh
khoản
những
năm
chưa
xa,
2010
-
2011.
Theo Minh
Đức