Tại
Hội
nghị
vùng
châu
Á
và
Thái
Bình
dương
(TBD)
của
Tổ
chức
Lương
nông
Liên
hiệp
quốc
(FAO)
lần
thứ
32
tổ
chức
tại
Ulaanbaatar,
Mông
Cổ
từ
10-14/3/2014,
FAO
công
bố
“Chiến
lược
lúa
gạo
để
đảm
bảo
an
ninh
lương
thực
bền
vững
cho
châu
Á
-
TBD”.
Hà
Nội
2012:
Điểm
xuất
phát
của
Chiến
lược
Điểm
xuất
phát
của
việc
xây
dựng
Chiến
lược
lúa
gạo
này
là
Hà
Nội,
nơi
đã
diễn
ra
Hội
nghị
FAO
vùng
châu
Á
-
TBD
lần
thứ
31
vào
tháng
3/2012.
Vào
thời
điểm
đó
trước
ám
ảnh
của
cuộc
khủng
hoảng
lương
thực
thế
giới
xảy
ra
vào
năm
2008
gây
nhiều
bất
ổn
chính
trị
-
xã
hội
cho
một
số
nước,
các
nhà
lãnh
đạo
nông
nghiệp
các
quốc
gia
trong
khu
vực
đã
đề
xuất
FAO
xây
dựng
một
chiến
lược
lúa
gạo
cho
vùng
để
giúp
các
nước
tham
khảo
xây
dựng
chiến
lược
và
chính
sách
lúa
gạo
cho
mình.
Đáp
ứng
yêu
cầu
này,
trong
năm
2013
các
chuyên
gia
FAO
đã
nghiên
cứu,
xây
dựng
Chiến
lược
với
sự
tư
vấn
của
nhóm
chuyên
gia
quốc
tế
ngoài
FAO
do
Giáo
sư
M.S.
Swaminathan
đứng
đầu
(ông
là
cha
đẻ
của
cuộc
cách
mạng
xanh
Ấn
Độ
và
nguyên
Tổng
giám
đốc
Viện
Lúa
quốc
tế
IRRI).
Bối
cảnh
ngành
lúa
gạo
châu
Á
-
TBD
Châu
Á
-
TBD
là
nơi
sản
xuất
và
tiêu
thụ
90%
lượng
lúa
gạo
của
thế
giới.
Gạo
là
thực
phẩm
cho
3
tỷ
người
trên
thế
giới
và
là
thực
phẩm
chủ
yếu
ở
châu
Á.
Lúa
gạo
gắn
liền
với
đời
sống
nông
dân
và
ổn
định
chính
trị
-
xã
hội
của
nhiều
nước
(ví
dụ
lúa
gạo
đang
gắn
liền
với
khủng
hoảng
chính
trị
hiện
nay
của
Thái
Lan).
Hiện
tại
ở
châu
Á
-
TBD
có
140
triệu
hộ
nông
dân
sản
xuất
lúa
trên
144
triệu
ha,
bình
quân
khoảng
1
ha/hộ
(đối
với
Việt
Nam
0,5
ha/hộ)
làm
ra
sản
lượng
650
triệu
tấn
lúa/năm.
Trong
nhiều
thập
kỷ
qua,
lúa
gạo
đã
đóng
góp
tích
cực
cho
an
ninh
lương
thực
khu
vực,
xóa
đói
giảm
nghèo
và
là
nguồn
sinh
kế
của
nông
dân.
Hiện
nay
và
tương
lai
do
sự
phát
triển
và
sự
thay
đổi
cơ
cấu
kinh
tế
đang
diễn
ra
nhanh
chóng
xuyên
suốt
khu
vực
châu
Á
-
TBD,
ngành
lúa
gạo
cần
thiết
có
những
đổi
mới
để
thích
ứng
với
những
thay
đổi
này.
Những
thách
thức
mà
ngành
lúa
gạo
khu
vực
cần
vượt
qua
để
đổi
mới
bao
gồm:
1.
Ảnh
hưởng
tiêu
cực
của
sản
xuất
lúa
đối
với
môi
trường
do
lạm
dụng
vật
tư
có
nguồn
gốc
hóa
học
(phân
bón,
thuốc
trừ
sâu
bệnh),
sử
dụng
quá
mức
nguồn
nước
ngọt.
Hệ
quả
là
sự
tăng
trưởng
năng
suất
và
hiệu
quả
sản
xuất
lúa
suy
giảm,
môi
trường
bị
ô
nhiễm,
suy
giảm
đa
dạng
sinh
học,
tác
động
tiêu
cực
đến
biến
đổi
khí
hậu
do
làm
tăng
phát
thải
khí
nhà
kính.
2.
Sự
suy
giảm
nguồn
tài
nguyên
cho
sản
xuất
lúa
bao
gồm
đất
lúa,
nguồn
nước
ngọt,
lao
động
do
quá
trình
phát
triển
của
công
nghiệp
hóa,
đô
thị
hóa
cùng
với
quá
trình
thay
đổi
cơ
cấu
kinh
tế
nông
nghiệp
và
do
biến
đổi
khí
hậu
gây
ra.
3.
Thu
nhập
thấp
của
nông
dân
trồng
lúa
chưa
có
lối
thoát
do
bị
trói
buộc
bởi
qui
mô
nông
hộ
sản
xuất
nhỏ
và
tách
rời
họ
với
chuỗi
giá
trị
lúa
gạo.
Sản
xuất
lúa
giúp
vượt
qua
được
đói
nhưng
gắn
liền
với
nghèo.
Tính
thiếu
hấp
dẫn
của
nghề
trồng
lúa
đã
không
tạo
ra
một
thế
hệ
nông
dân
sản
xuất
lúa
trẻ
có
kỹ
năng
mà
hiện
nay
nông
dân
trồng
lúa
phần
lớn
là
người
cao
tuổi
và
xu
hướng
ngày
càng
già
hơn.
4.
Sự
thay
đổi
về
chất
lượng
của
khẩu
phần
ăn
do
kinh
tế
phát
triển,
tỷ
trọng
lượng
gạo
trong
khẩu
phần
ăn
giảm
nhưng
yêu
cầu
chất
lượng
và
giá
trị
dinh
dưỡng
của
lúa
gạo
gia
tăng.
Trong
bối
cảnh
trên,
nhu
cầu
tiêu
thụ
gạo
của
châu
Á
-
TBD
vẫn
tiếp
tục
tăng
do
dân
số
tăng
dù
mức
tiêu
thụ
trên
đầu
người
giảm.
Theo
tính
toán
của
FAO
và
các
tổ
chức
khoa
học
quốc
tế,
đến
2030,
lượng
gạo
tiêu
thụ
thế
giới
khoảng
500-535
triệu
tấn
tức
bình
quân
mức
tiêu
thụ
gia
tăng
hàng
năm
khoảng
1%.
Trong
điều
kiện
diện
tích
trồng
lúa
giảm,
để
đáp
ứng
nhu
cầu
tiêu
thụ
gạo
gia
tăng,
năng
suất
lúa
cần
tăng
1,2
–
1,5%
trên
năm
(những
năm
gần
đây
năng
suất
lúa
thế
giới
chỉ
tăng
khoảng
1%
trên
năm
so
với
2%
trong
thời
kỳ
đầu
của
cách
mạng
xanh).
Trước
những
thử
thách
trên,
nếu
không
có
các
chính
sách
và
biện
pháp
phù
hợp,
an
ninh
lương
thực
của
khu
vực
sẽ
bị
ảnh
hưởng
dẫn
đến
bất
ổn
khu
vực.
Trong
tương
lai
vị
trí
lúa
gạo
ở
châu
Á
-
TBD
về
kinh
tế
sẽ
giảm
do
thay
đổi
cơ
cấu
kinh
tế
nhưng
vị
trị
chính
trị
-
xã
hội
của
lúa
gạo
vẫn
quan
trọng
và
lúa
gạo
vẫn
còn
là
một
“ngành
hàng
chính
trị”.
Trụ
cột
của
Chiến
lược
Từ
bối
cảnh
nêu
trên,
Chiến
lược
lúa
gạo
của
FAO
cho
vùng
châu
Á
-
TBD
nhằm
tháo
gỡ
các
nút
thắt
của
ngành
lúa
gạo
khu
vực
để
đem
lại
“an
ninh
lương
thực
và
dinh
dưỡng
và
sự
phồn
vinh
cho
nông
dân
trồng
lúa
và
người
tiêu
dùng
từ
một
ngành
lúa
gạo
đổi
mới,
năng
động
và
sáng
tạo
đạt
năng
suất,
hiệu
quả
cao
và
bền
vững
môi
trường”.
Chiến
lược
dựa
trên
các
trụ
cột
chính
sau
đây:
1.
Chuyển
sản
xuất
lúa
sang
hướng
thâm
canh
bền
vững
để
tăng
năng
suất,
chất
lượng
và
hiệu
quả
nhưng
không
làm
tổn
hại
đến
môi
trường,
hạn
chế
tác
động
của
sản
xuất
lúa
làm
tăng
biến
đổi
khí
hậu.
Biện
pháp
trung
tâm
của
thâm
canh
bền
vững
theo
phương
châm
“Giảm
và
Tăng”
(Save
and
Grow)
của
FAO,
trong
đó
đối
với
thâm
canh
lúa
Giảm
chủ
yếu
gồm:
lượng
hạt
giống,
phân
hóa
học,
thuốc
trừ
sâu
bệnh,
nước
và
lao
động.
Tăng
gồm
năng
suất,
chất
lượng
và
giá
trị
dinh
dưỡng,
hiệu
quả
và
thu
nhập
nông
dân.
Thâm
canh
lúa
bền
vững
gắn
liền
cơ
giới
hóa
để
đưa
sản
xuất
lúa
tiến
đến
sản
xuất
công
nghiệp
(công
nghiệp
hóa,
hiện
đại
hóa
sản
xuất
lúa).
Để
thực
hiện
thành
công
biện
pháp
“Giảm
và
Tăng”
cần
phát
triển,
ứng
dụng
các
tiến
bộ
khoa
học
kỹ
thuật,
công
nghệ
mới
và
các
chính
sách
thích
hợp
để
khuyến
khích
sản
xuất
lúa
bền
vững.
2.
Nâng
cao
hiệu
quả
chuỗi
giá
trị
của
lúa
gạo
từ
sản
xuất
đến
tiêu
thụ
theo
hướng
giảm
thất
thoát
trong
và
sau
thu
hoạch,
nâng
cao
chất
lượng
và
an
toàn
thực
phẩm,
đa
dạng
sản
phẩm
từ
lúa
gạo,
giảm
các
khâu
kinh
doanh
trung
gian,
thu
hẹp
khoảng
cách
từ
người
sản
xuất
lúa
đến
người
tiêu
dùng,
đảm
bảo
công
bằng
về
lợi
ích
của
các
thành
viên
trong
chuỗi
giá
trị.
Nâng
cao
chuỗi
giá
trị
lúa
gạo
cần
sự
đầu
tư
nhà
nước
về
hạ
tầng
nhất
là
cho
khâu
sau
thu
hoạch
và
đặc
biệt
là
sự
tham
gia
của
của
doanh
nghiệp
và
hình
thành
cơ
chế
hợp
tác
công
-
tư.
3.
Giải
quyết
bài
toán
về
thu
nhập
cho
nông
dân
nhỏ
trồng
lúa,
trước
nhất
tạo
điều
kiện
để
tích
tụ
ruộng
đất
hữu
hình
hoặc
vô
hình.
Tích
tụ
hữu
hình
để
tập
trung
ruộng
đất
như
kiểu
châu
Âu
hoặc
châu
Mỹ
khó
hình
thành
ở
châu
Á
do
sự
khác
biệt
về
điều
kiện
tự
nhiên,
nhưng
có
thể
phát
triển
các
loại
hình
tích
tụ
đa
dạng
khác,
gần
đây
dạng
tích
tụ
vô
hình
theo
hướng
hợp
tác,
liên
kết,
sản
xuất
theo
hợp
đồng,...
để
biến
nông
dân
nhỏ
thành
sản
xuất
lớn
đang
có
xu
hướng
phát
triển
ở
một
số
nước
(“cánh
đồng
mẫu
lớn”
của
Việt
Nam
thuộc
dạng
này).
Ngoài
ra,
thu
nhập
nông
dân
nhỏ
trồng
lúa
lệ
thuộc
vào
việc
thay
đổi
cơ
cấu
kinh
tế
nông
thôn,
ví
dụ
nếu
giảm
2/3
số
người
trồng
lúa
do
họ
được
hỗ
trợ
để
có
việc
làm
khác
thì
quy
mô
diện
tích
lúa/nông
dân
tăng
3
lần,
vì
vậy
phát
triển
và
thay
đổi
cơ
cấu
kinh
tế
nông
thôn
là
chỗ
dựa
cho
sản
xuất
lúa.
Cơ
sở
vật
chất
để
phục
vụ
cho
tích
tụ
ruộng
đất
cần
được
nhà
nước
đầu
tư
để
nông
dân
có
điều
kiện
về
vốn,
ứng
dụng
khoa
học
công
nghệ
và
cơ
giới
hóa
để
tiết
kiệm
chi
phí
sản
xuất,
áp
dụng
sấy
lúa,
tồn
trữ
lúa
hoặc
tham
gia
sâu
vào
chuỗi
giá
trị,
hình
thành
lớp
nông
dân
hiện
đại
như
thương
nhân,
qua
đó
thu
hút
được
thanh
niên
và
phát
huy
vai
trò
của
phụ
nữ
trong
sản
xuất
lúa.
Các
cơ
chế
đặc
biệt
hỗ
trợ
nông
dân
để
ứng
phó
với
rủi
ro
do
thiên
tai
hoặc
thị
trường
cần
thiết
được
thiết
lập.
4.
Phát
triển
lúa
gạo
cần
đóng
góp
cho
sự
bền
vững
của
môi
trường,
trong
đó
một
mặt
giảm
thiểu
tác
động
tiêu
cực
của
sản
xuất
lúa
đối
với
môi
trường
và
biến
đổi
khí
hậu,
mặt
khác
áp
dụng
các
giải
pháp
trong
sản
xuất
lúa
để
thích
nghi
với
biến
đổi
khí
hậu
(gia
tăng
nhiệt
độ,
xâm
mặn,
thiếu
nước
và
hạn
hoặc
úng
ngập).
Phát
huy
mặt
tích
cực
của
hệ
sinh
thái
lúa
nước
về
khả
năng
cung
cấp
các
dịch
vụ
sinh
thái
hữu
ích
(cung
cấp
sản
phẩm
nông
nghiệp,
điều
tiết
môi
trường,
đa
dạng
sinh
học,
văn
hóa
và
di
sản).
Phát
triển
cơ
cấu
sản
xuất
nông
nghiệp
bền
vững
có
lúa
theo
hướng
luân
canh
lúa
-
cây
trồng
cạn,
lúa
kết
hợp
thủy
sản,
chăn
nuôi
hoặc
lâm
nghiệp.
5.
Cải
thiện
thị
trường
lúa
gạo
nội
địa
và
quốc
tế
về
tính
hiệu
quả,
sự
tin
cậy
và
công
bằng,
đảm
bảo
giá
cả
và
nguồn
cung
ổn
định,
người
thu
nhập
thấp
có
thể
tiếp
cận
tiêu
thụ;
hình
thành
hệ
thống
thông
tin
thị
trường
lúa
gạo
và
hợp
tác
khu
vực.
Theo
Bùi
Bá
Bổng
Nông
nghiệp
Việt
Nam