Dịch
vụ
bán
lẻ
Việt
Nam
trong
khung
khổ
TPP
Thứ
năm
-
26/09/2013
09:42
(Chinhphu.vn)
-
Trong
khung
khổ
đàm
phán
TPP,
lĩnh
vực
dịch
vụ
bán
lẻ
Việt
Nam
có
cơ
hội
để
phát
triển
với
cả
các
nhà
bán
lẻ
trong
nước,
cả
nhà
bán
lẻ
nước
ngoài.
Bên
cạnh
đó,
hệ
thống
tổ
chức
mạng
lưới
bán
lẻ
trong
nước
cũng
có
điều
kiện
để
khai
thác,
đầu
tư.
Dịch
vụ
bán
lẻ
thường
chiếm
từ
30-50%
trong
chuỗi
giá
trị,
thậm
chí
còn
lớn
hơn,
và
là
mối
quan
tâm
lớn
trong
các
cuộc
đàm
phán
liên
quan.
Tiềm
năng
cần
tận
dụng
Nước
ta
có
khoảng
90
triệu
người
tiêu
dùng,
phần
lớn
là
giới
trẻ,
một
thị
trường
tiêu
thụ
rất
lớn
trong
hiện
tại
và
tương
lai.
Nếu
lấy
con
số
trung
bình
1
người
Việt
Nam
mỗi
năm
tiêu
thụ
ít
nhất
100-200USD
hàng
hoá
từ
dịch
vụ
bán
lẻ
thì
thị
trường
dịch
vụ
bán
lẻ
Việt
Nam có
dung
lượng
ít
nhất
từ
9
-18
tỷ
USD/năm.
Cho
đến
nay,
thị
trường
bán
lẻ
Việt
Nam
vẫn
là
một
thị
trường
có
tiềm
năng
lớn
do
thu
nhập
của
dân
cư
ngày
càng
được
cải
thiện
và
nhu
cầu
mua
sắm
của
dân
cư
rất
cao.
Bên
cạnh
đó,
thị
trường
dịch
vụ
bán
lẻ
của
các
nước
tham
gia
Hiệp
định
đối
tác
kinh
tế chiến
lược
xuyên
Thái
Bình
Dương
(TPP)
cũng
rất
lớn,
cả
về
thu
nhập
trung
bình
lẫn
thói
quen
tiêu
dùng
hàng
hoá
khổng
lồ
như
Mỹ,
Australia,
Nhật
Bản…
với
dung
lượng
thị
trường
bán
lẻ
lên
tới
hàng
nghìn
tỷ
USD
mỗi
năm,
bên
cạnh đó
còn
là tiềm
năng
thương
mại
điện
tử
từ
các
cường
quốc
thương
mại
điện
tử
này.
Có
thể
nói
đây
là
những
thuận
lợi
với
các
nhà
bán
lẻ
Việt
Nam
nói
riêng,
nếu
tận
dụng
nhanh
được
cơ
hội
khi
TPP
hoàn
tất
việc
đàm
phán.
Thách
thức
cần
nhìn
nhận
Ở
nước
ta,
các
nhà
bán
lẻ
lớn
trên
thế
giới
xuất
hiện
khá
sớm
như
METRO
(Đức,
từ
năm
2002),
BigC
(Pháp,
từ
năm
1998)…
nhưng
chưa
phải
là
các
nhà
bán
lẻ
từ
các
nước
đàm
phán
trong
Hiệp
định
TPP
như
Mỹ,
Nhật
Bản,
Australia,
New
Zealand,
Chile…
mà
điều
chắc
chắn
là
họ
cũng
rất
mạnh.
Thực
tế
hoạt
động
cung
ứng
dịch
vụ
bán
lẻ
tại
Việt
Nam
cho
thấy
nhiều
mặt
hàng
sản
xuất
tại
Việt
Nam
(như
dệt
may,
nông
sản,
điện
tử,
đồ
gỗ…)
nhưng
được
bán
tại
các
siêu
thị
với
giá
cao
hơn
nhiều
so
với
mức
giá
trung
bình
tại
các
cửa
hàng
Việt
Nam.
Tuy
nhiên,
phần
chênh
lệch
giá
này
thuộc
về
các
siêu
thị.
Chính
vì
thế,
việc
mở
cửa
thị
trường
dịch
vụ
bán
lẻ
của
Việt
Nam
sẽ
là
một
trong
những
lĩnh
vực
hấp
dẫn
các
đối
tác
đàm
phán.
Điểm
bất
cập,
hạn
chế
dễ
thấy
là
hệ
thống
chuỗi
siêu
thị,
cửa
hàng
bán
lẻ
tư
nhân,
hệ
thống
chợ
đầu
mối,
chợ
bán
lẻ…
của
Việt
Nam
chưa
đáp
ứng
nhu
cầu
mua
sắm
ngày
càng
tăng
của
người
tiêu
dùng
Việt
Nam,
trong
đó
vấn
đề
nổi
lên
là
tính
chuyên
nghiệp
chưa
cao,
giá
cả
thiếu
cạnh
tranh,
nguồn
hàng
chưa
phong
phú,
đa
dạng,
mức
độ
kiểm
soát
chất
lượng
hàng
hóa
chưa
đáp
ứng
yêu
cầu,
hệ
thống
kênh
phân
phối
chưa
tương
xứng
với
nhu
cầu
khách
hàng
vùng
nông
thôn.
Có
thể
nói
đây
là
“khoảng
trống”
khá
lớn
ở
thị
trường
dịch
vụ
bán
lẻ
của
Việt
Nam,
cũng
vì
thế,
“khoảng
trống”
này
cũng
dễ
bị
khai
thác
khi
mở
cửa
thị
trường
trong
TPP.
Hệ
quả
là
sự
thâm
nhập
và
cạnh
tranh
gay
gắt
từ
các
đối
tác
nước
ngoài
có
thể
khiến
lĩnh
vực
dịch
vụ
bán
lẻ
trong
nước
bị
thu
hẹp,
ảnh
hưởng
đến
việc
làm,
thu
nhập
của
một
lực
lượng
lớn
lao
động.
Hơn
nữa,
các
cam
kết
mở
cửa
theo
“gói
dịch
vụ”
trong
TPP
với
nguyên
tắc
“chỉ
đàm
phán
những
dịch
vụ
không
được
phép”,
nghĩa
là
khi
đàm
phán
đạt
được
sự
nhất
trí,
các
nhà
cung
ứng
dịch
vụ
được
phép
cung
ứng
tất
cả
các
loại
dịch
vụ,
ngoại
trừ
các
dịch
vụ
thuộc
danh
mục
cấm.
Đây
là
cam
kết
mở
cửa
thị
trường
toàn
diện
hơn
và
rộng
hơn
so
với
các
cam
kết
khác
của
Việt
Nam.
Cơ
chế
này
tạo
điều
kiện
khá
rộng
cho
các
nhà
bán
lẻ
từ
các
nước
đối
tác
tham
gia
hệ
thống
bán
lẻ
Việt
Nam.
Khi
đó,
người
tiêu
dùng
Việt
Nam
có
cơ
hội
hưởng
lợi
đáng
kể
từ
việc
mở
cửa
thị
trường
này
(do
hàng
hoá
đa
dạng,
phong
phú
chủng
loại,
mẫu
mã,
thương
hiệu,
chất
lượng
cao
và
giá
cả
cạnh
tranh).
Các
loại
hàng
hoá
kém
chất
lượng,
giá
cả
thiếu
cạnh
tranh…
có
thể
không
còn
chỗ
đứng
trên
thị
trường.
Hệ
thống
bán
lẻ
trực
tuyến
cũng
là
cách
thức
có
thể
được
các
nhà
bán
lẻ
của
các
nước
đối
tác
TPP
khai
thác
triệt
để.
Các
phương
thức
bán
lẻ
thông
qua
hệ
thống
mạng,
email,
facebook,
twitter,
sàn
giao
dịch,
thậm
chí
cách
thức
"truyền
miệng"…
cũng
sẽ
được
triệt
để
tận
dụng.
Chẳng
hạn,
Amway
(Tập
đoàn
hàng
đầu
thế
giới
về
bán
hàng
đa
cấp,
có
trụ
sở
tại
Mỹ)
đã
khai
thác
cách
thức
xây
dựng
hệ
thống
phân
phối
thông
qua
phương
thức
truyền
miệng
khá
hiệu
quả
ở
nhiều
nước
trên
thế
giới,
trong
đó
có
Việt
Nam.
Làm
gì để
"thích
nghi"?
Để
thích
nghi
với
TPP,
các
nhà
bán
lẻ
Việt
Nam
cần
tăng
khả
năng
liên
kết
nội
bộ
thành
các
chuỗi
cung
ứng
chặt
chẽ
đối
với
từng
loại
mặt
hàng
từ
khâu
sản
xuất
đến
khâu
tiêu
thụ
(như
từ
“ao
nuôi
đến
bàn
ăn"
đối
với
hàng
thuỷ
sản
hoặc
các
mặt
hàng
nông
sản
khác);
phát
triển
chuỗi
siêu
thị
hoặc
hệ
thống
bán
lẻ
lớn
hơn
nhằm
giảm
tính
manh
mún,
rời
rạc,
phát
triển
tính
chuyên
nghiệp;
bảo
đảm
khối
lượng
hàng
hoá
phong
phú,
đa
dạng,
chất
lượng
cao,
giá
cạnh
tranh,
kết
nối
rộng
rãi
cả
các
nhà
cung
cấp
trong
và
ngoài
nước
nhằm
hoạt
động
hiệu
quả
trên
thị
trường
trong
nước
để
sẵn
sàng
cạnh
tranh
với
các
nhà
bán
lẻ
nước
ngoài.
Nếu
xuất
hiện
việc
sáp
nhập
hoặc
mua
lại
hệ
thống
bán
lẻ
của
Việt
Nam
thì
khi
thương
thảo,
không
để
mức
giá
quá
thấp,
vì
đó
là
giá
của
cả
một
hệ
thống.
Bên
cạnh
đó,
các
nhà
bán
lẻ
Việt
Nam
cũng
cần
có
chiến
lược
phát
triển
hệ
thống
bán
lẻ
sang
các
nước
đối
tác
trong
TPP
để
tận
dụng
cơ
hội
thị
trường,
nguồn
hàng
phong
phú
của
Việt
Nam,
tận
dụng
kinh
nghiệm
từ
việc
tổ
chức
hệ
thống
bán
lẻ
của
các
nước
để
phát
triển
hệ
thống
của
mình.
Đẩy
mạnh
việc
xây
dựng
thương
hiệu
của
các
chuỗi
siêu
thị,
thương
hiệu
hàng
hoá
Việt
Nam
để
tăng
uy
tín
của
hệ
thống
cũng
như
của
hàng
hoá
Việt
Nam
trong
việc
đáp
ứng
nhu
cầu
khách
hàng
trong
nước
và
nước
ngoài.
Các
nhà
bán
lẻ
Việt
Nam
có
tiềm
lực
như
Co.op
Mart,
Co.op
Food…
cần
xây
dựng
chiến
lược
mua
lại
các
siêu
thị,
cửa
hàng
hoặc
hệ
thống
bán
lẻ
của
các
nước
đối
tác
để
nhanh
chóng
thâm
nhập
vào
thị
trường
bán
lẻ
của
các
nước
thành
viên
như
thị
trường
Mỹ,
Nhật
Bản,
Australia…
Về
phát
triển
mạnh
thương
mại
điện
tử
để
phù
hợp
với
các
cam
kết
khá
rộng
về
dịch
vụ
này,
chúng
ta
cần
chuẩn
bị
nguồn
lực
về
đội
ngũ
doanh
nhân
kinh
doanh
bán
lẻ,
nhân
viên
bán
hàng
chuyên
nghiệp
trực
tiếp
và
trực
tuyến
có
thể
làm
việc
ở
các
quốc
gia
khác
nhau.
Bên
cạnh
đó,
các
quy
định
tiêu
chuẩn
kỹ
thuật
hàng
nhập
khẩu
cũng
cần
được
hoàn
thiện
và
thắt
chặt
hợp
lý
nhằm
loại
bỏ
các
hàng
hoá
thiếu
tiêu
chuẩn,
kém
chất
lượng.
PGS.TS.
Nguyễn
Thường
Lạng
(Đại
học
Kinh
tế
quốc
dân)