Mạnh ai nấy làm
Hình thành đã 20 năm, KCN Trà Nóc (Cần Thơ) là KCN đầu tiên của cả vùng mở ra một trào lưu kinh tế mà ngay lúc đó, nhiều tỉnh, thành trong vùng phải âm thầm mơ ước! Sau đó, hàng loạt các KCN ở ĐBSCL bắt đầu ra đời. Tỉnh nào cũng quy hoạch KCN với rất nhiều tiềm năng và chính sách mời gọi đầu tư lý tưởng. Tuy nhiên, lợi thế của các tỉnh có tính tương đồng cao chỉ là nông nghiệp. ĐBSCL rất hiếm nguyên liệu để phát triển công nghiệp nặng, thiếu nguồn lực lao động chất lượng cao, nền đất yếu đẩy chi phí đầu tư hạ tầng cao hơn so các vùng khác trong cả nước.
KCN Trà Nóc (Cần Thơ) sau 16 năm hoạt động vẫn chưa có nhà máy xử lý nước thải tập trung. |
Long
An
có
lẽ
là
“điểm
nóng”
nhất
tại
các
tỉnh
ĐBSCL
trong
việc
lấy
đất
lúa
làm
KCN.
Sau
hơn
10
năm
tập
trung
phát
triển
công
nghiệp,
tỉnh
đã
thành
lập
64
KCN,
với
15.467ha
đất
bị
thu
hồi,
phần
lớn
là
đất
nông
nghiệp.
Thế
nhưng,
diện
tích
đất
KCN
bỏ
hoang
cũng
không
ít.
Tại
Cần
Thơ,
ngoài
KCN
Trà
Nóc
1
và
2
có
cơ
sở
hạ
tầng
tương
đối
hoàn
chỉnh
nên
đã
thu
hút
được
nhà
đầu
tư,
còn
lại
KCN
Hưng
Phú
1,
Hưng
Phú
2A,
2B
đang
trong
tình
trạng
“đắp
chiếu”
vì
đã
nhiều
năm
chủ
đầu
tư
chưa
giải
phóng
mặt
bằng
và
xây
dựng
hạ
tầng.
Một
trong
những
địa
phương
phát
triển
KCN,
CCN,
khu
đô
thị
nhanh
và
nhiều
nhất
là
huyện
Châu
Thành
(Hậu
Giang)
với
tổng
diện
tích
quy
hoạch
lên
đến
3.200ha,
do
có
lợi
thế
bờ
sông
Hậu.
Tại
KCN
Sông
Hậu,
hàng
loạt
dự
án
được
khởi
công
rất
hoành
tráng
rồi
để
đó
theo
kiểu
“xí
phần”
như:
Dự
án
xây
dựng
nhà
máy
giấy
Lee
&
Man;
dự
án
xây
nhà
máy
đóng
tàu
của
Tập
đoàn
tàu
thủy
Việt
Nam
(Vinashin)…
Cụ thể, tháng 4-2007, Vinashin khởi công xây dựng nhà máy đóng tàu và CCN tàu thủy ở ấp Phú Nhơn, xã Đông Phú trên diện tích 600ha, vốn đầu tư 60.000 tỷ đồng, dự kiến giải quyết việc làm cho 20.000 lao động. Thế nhưng, sau 4 năm, nhà máy đóng tàu và CCN tàu thủy vẫn là bãi đất trống và mấy chiếc cần cẩu dựng đứng. Cuối năm 2010, UBND tỉnh Hậu Giang phải ký quyết định “sang bớt” 152ha đất nằm trong dự án này cho Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) để thực hiện dự án xây dựng cảng biển và khu hậu cần…
Tương tự, vào tháng 8-2007, dự án Nhà máy giấy Lee & Man (Trung Quốc) được khởi công tại CCN Phú Hữu A (thị trấn Mái Dầm, huyện Châu Thành) cũng khá hoành tráng. Dự án đầu tư trên diện tích 82ha, vốn đầu tư theo tuyên bố là 1,2 tỷ USD, được xem là nhà máy sản xuất giấy và bột giấy lớn nhất Việt Nam. Dù vậy, đến nay hơn 4 năm, dự án này gần như bị đình trệ.
Với tâm lý “bằng anh bằng em”, hầu hết các tỉnh, thành đều có KCN, CCN nhưng chẳng khẳng định rõ thế mạnh là gì và làm thế nào để các KCN, CCN này phát triển, ngoài “bài ca tiềm năng” giống nhau giữa các tỉnh, thành trong vùng.
Cánh đồng lúa tại KCN Sông Hậu. |
Mất cân đối
|
|
Đến thời điểm hiện tại, ĐBSCL có 611 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực, trong đó Long An dẫn đầu với 371 dự án, vốn đầu tư đăng ký trên 3,56 tỷ USD, tiếp đến là Kiên Giang với hơn 3 tỷ USD; một số tỉnh, thành khác tỷ lệ vốn thấp và nếu cộng lại cả vùng thì tổng vốn FDI ở ĐBSCL chưa bằng một tỉnh Đông Nam bộ.
Theo
Bộ
KH-ĐT,
các
KCN
là
động
lực
để
phát
triển
kinh
tế
-
xã
hội,
thống
kê
cho
thấy
các
KCN
thu
hút
khoảng
50%
tổng
nguồn
vốn
FDI.
Đối
với
ĐBSCL,
vùng
kinh
tế
trọng
điểm
của
cả
nước,
thời
gian
qua
dù
đạt
được
những
thành
tựu
khích
lệ
nhưng
bộc
lộ
nhiều
yếu
kém
cần
khắc
phục.
Việc
phát
triển
KCN
chưa
gắn
kết
với
tiến
trình
CNH
-
HĐH
nông
nghiệp
nông
thôn.
Nhiều
KCN
được
thành
lập
nhưng
thu
hút
đầu
tư
kém,
sản
phẩm
làm
ra
nghèo
nàn
không
tương
xứng
với
quy
hoạch.
Việc
đền
bù,
giải
phóng
mặt
bằng,
bố
trí
tái
định
cư
bất
cập,
dẫn
đến
nhiều
khó
khăn
cho
người
dân.
Những
lỗ
hổng
ở
các
KCN
ở
ĐBSCL
là
do
các
địa
phương
không
tính
toán
đến
chiến
lược
liên
kết
vùng
mà
mạnh
ai
nấy
làm,
dẫn
đến
sự
cạnh
tranh
không
đáng
có.
Lĩnh
vực
được
đầu
tư
nhiều
nhất
là
công
nghiệp
chế
biến
và
chế
tạo.
Tuy
nhiên,
theo
các
chuyên
gia,
cơ
sở
hạ
tầng
của
toàn
vùng
nhìn
chung
chưa
đồng
bộ,
suất
đầu
tư
vào
công
nghiệp
còn
cao
làm
nhiều
đơn
vị
nước
ngoài
ngán
ngại,
nhiều
dự
án
xin
rút
vốn
và
chấm
dứt
hoạt
động
khiến
đồng
vốn
đầu
tư
vào
vùng
ĐBSCL
thấp
hơn
nhiều
so
với
đồng
bằng
sông
Hồng
và
Đông
Nam
bộ.
Điểm
yếu
nhất
đối
với
ĐBSCL
là
sự
mất
cân
đối
nghiêm
trọng
trong
phát
triển
công
nghiệp
của
các
địa
phương
nhiều
năm
qua:
ngành
công
nghiệp
chế
biến
(chế
biến
lương
thực,
thủy
hải
sản,
thức
ăn
gia
súc)
chiếm
phần
lớn
giá
trị
của
toàn
ngành;
các
ngành
công
nghiệp
chế
tạo,
công
nghiệp
kỹ
thuật
cao,
công
nghiệp
sản
xuất
hàng
tiêu
dùng
chưa
phát
triển
được
bao
nhiêu.
Riêng
công
nghiệp
chế
biến,
trình
độ
mới
dừng
lại
sơ
chế,
tỷ
lệ
chế
biến
chuyên
sâu
chưa
cao,
trang
thiết
bị
và
công
nghệ
lạc
hậu,
năng
lực
sản
xuất
hạn
chế,
chất
lượng
sản
phẩm
chưa
cao,
chi
phí
trung
gian
còn
lớn.
Tỷ
lệ
thiết
bị
hiện
đại
của
các
cơ
sở
sản
xuất
công
nghiệp
ở
ĐBSCL
còn
rất
thấp,
đa
số
chưa
đồng
bộ,
chỉ
tập
trung
ở
một
số
công
đoạn
sản
xuất
chủ
yếu.
Nói
cách
khác,
cần
phải
đổi
mới
hơn
80%
thiết
bị
mới
nâng
cao
đáng
kể
sức
cạnh
tranh
của
các
sản
phẩm
công
nghiệp.
Công
nghiệp
ĐBSCL
hướng
mạnh
theo
xuất
khẩu
(gạo,
thủy
sản
đông
lạnh...),
đến
nay
chủ
yếu
dựa
vào
lợi
thế
nguồn
lao
động
rẻ,
tài
nguyên
có
sẵn
tại
chỗ;
nhưng
những
lợi
thế
này
có
xu
hướng
giảm
dần.
Gần
đây
đã
xuất
hiện
những
cảnh
báo
rằng
nếu
không
khắc
phục
những
yếu
kém
và
bất
cập
kể
trên
thì
công
nghiệp
ĐBSCL
trong
10
năm
tới
sẽ
tụt
hậu
so
với
các
vùng
khác
trong
nước
và
trở
thành
vùng
có
tốc
độ
phát
triển
công
nghiệp
chậm
nhất
Việt
Nam.
Thách
thức
gay
gắt
nhất
đối
với
ĐBSCL
là
áp
lực
cạnh
tranh
ngày
càng
gia
tăng.
B. ĐẠI - L. PHƯƠNG
|
|
Nguồn tin: SGGP
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập : 177
•Máy chủ tìm kiếm : 24
•Khách viếng thăm : 153
Hôm nay : 34795
Tháng hiện tại : 932135
Tổng lượt truy cập : 44299820