Về lý thuyết, nguyên tắc chủ quyền quốc gia cho phép nhà nước được toàn quyền quản lý và định đoạt các tài sản, tài nguyên trên lãnh thổ của mình và không bị ai xét xử. Trên thực tế, để thu hút vốn đầu nước ngoài, các nước thường phải ký kết các điều ước quốc tế về bảo hộ đầu tư trong đó cam kết không tiến hành quốc hữu hóa, truất hữu tài sản của NĐTNN và sẽ phải bồi thường nếu biện pháp truất hữu bị coi là bất hợp pháp theo quy định của luật quốc tế, cũng như chấp nhận từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp.
Việt Nam trong quá trình hội nhập cũng không nằm ngoài xu hướng này. Chúng ta đã ký kết hơn 60 hiệp định đầu tư song phương (BIT). Đây là cơ sở để các NĐTNN có thể trực tiếp kiện Nhà nước ta ra cơ quan tài phán quốc tế (thông thường là trọng tài) để bảo vệ các quyền lợi kinh tế mà họ cho là bị mất mát do các biện pháp của Nhà nước. Nói cách khác, bất kỳ biện pháp hành chính hay pháp lý nào của Nhà nước ta cho dù là phù hợp với quy định của luật quốc gia nhưng không phù hợp với các điều kiện do BIT quy định vẫn sẽ có thể bị NĐTNN thách thức theo thủ tục pháp lý quốc tế.
Đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường của NĐTNN, Nhà nước cần mạnh dạn xử lý nhưng phải cân nhắc các yêu cầu của luật quốc tế để hạn chế bị tác động không đáng từ những thủ tục pháp lý do NĐTNN khởi xướng |
Được
biết
đã
có
nhiều
vụ
kiện
mà
cơ
quan
tài
phán
quốc
tế
buộc
nước
tiếp
nhận
đầu
tư
phải
bồi
thường
hàng
hàng
trăm
triệu
đô
la
Mỹ
cho
NĐTNN
vì
biện
pháp
họ
áp
dụng
bị
coi
là
không
phù
hợp
với
luật
quốc
tế.
Vậy
nước
tiếp
nhận
đầu
tư
có
thể
làm
gì
khi
NĐTNN
gây
ô
nhiễm
môi
trường?
Liệu
các
quy
định
bảo
hộ
đầu
tư
của
BIT
có
tước
đi
quyền
thực
hiện
biện
pháp
truất
hữu
của
nhà
nước?
Khi xem xét vấn đề này, cần nhận thức rằng luật quốc tế không hoàn toàn “cấm” nhà nước thực hiện truất hữu tài sản của NĐTNN. Biện pháp truất hữu (cho dù là gián tiếp hay trực tiếp) sẽ được coi là hợp pháp khi đảm bảo được bốn yếu tố sau:
(a) nhằm phục vụ lợi ích công cộng;
(b) được thực hiện một cách không phân biệt đối xử;
(c) được thực hiện theo thủ tục luật định;
(d) có thực hiện bồi thường cho đối tượng bị truất hữu tài sản.
Những yếu tố này sẽ quyết định trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong các vụ tranh chấp đầu tư quốc tế. Ở đây, ngoài việc chứng minh mục đích của quy định pháp luật hoặc biện pháp hành chính của cơ quan nhà nước là hướng tới lợi ích công cộng, tức là bảo vệ môi trường (có những bằng chứng khoa học chính xác và đầy đủ), vấn đề bảo đảm không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư và quy trình thủ tục áp dụng theo luật định là hai điều kiện mang tính định lượng phải được bảo đảm.
Với yếu tố cuối cùng, mặc dù, về nguyên tắc nhà nước được mong chờ sẽ phải thực hiện bồi thường đối với truất hữu, luật quốc tế cũng chấp nhận nhà nước không phải chịu trách nhiệm cho những thiệt hại kinh tế là hậu quả của “quy định ngay tình” thuộc thẩm quyền giám sát đặc biệt của nhà nước (như bảo vệ môi trường, sức khỏe con người, các tài nguyên có thể bị cạn kiệt...). Vấn đề này được cổ súy trong luật quốc tế về bảo vệ môi trường. Luật môi trường quốc tế trong hơn hai thập niên trở lại đây đã hình thành nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả hết” - tức là ai gây ra ô nhiễm môi trường có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và chịu toàn bộ các chi phí để bảo vệ và khôi phục môi trường.
Tóm lại, đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường của NĐTNN, Nhà nước cần mạnh dạn xử lý nhưng phải cân nhắc các yêu cầu của luật quốc tế để hạn chế bị tác động không đáng từ những thủ tục pháp lý do NĐTNN khởi xướng.
PGS.TS.
Trần
Việt
Dũng
Cố
vấn
pháp
lý,
Victory
LLC
Nguồn tin: TBKTSG Online
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang
truy
cập
:
45
Hôm
nay
:
12271
Tháng
hiện
tại
:
163688
Tổng
lượt
truy
cập
:
53667351