Nội
dung
phiên
thảo
luận
chuyên
đề
4:
Các
giải
pháp
liên
kết
phát
triển
TP.HCM
–
ĐBSCL
Thứ
hai
-
07/02/2022
08:48
Thời
gian:
13g30-15g30,
Ngày
17/12/2021.
Tại
Hội
trường
Thống
nhất
TP.HCM
Chủ
trì:
Ông
Bùi
Tá
Hoàng
Vũ
–
Giám
đốc
Sở
công
thương
TP.HCM
Thành
phần
diễn
giả:
1/
Ông
Phan
Chánh
Dưỡng
–
Chuyên
gia
kinh
tế
2/
Bà
Đỗ
Thu
Hường
–
Phó
Giám
đốc
Marketing
TCT
Tân
cảng
Sài
Gòn
3/
Nhà
đầu
tư
nông
nghiệp
Phan
Minh
Thông
–
Chủ
tịch
tập
đoàn
Phúc
Sinh
4/
Doanh
nhân
Nguyễn
Đình
Tùng
–
Phó
chủ
tịch
Hiệp
hội
rau
quả
VN,
Tổng
Giám
đốc
Vina
T&T
5/
TS
Vũ
Thành
Tự
Anh
–
Giám
đốc
Nghiên
cứu
của
Chương
trình
Giảng
dạy
Kinh
tế
Fulbright
tại
TP.HCM
(Tham
dự
qua
Zoom)
Điều
phối:
Ông
Nguyễn
Phương
Lam
–
Giám
đốc
VCCI
Cần
Thơ
Thư
ký:
Hồ
Đức
Minh
Ông
Phương
Lam
mở
đề:
ĐBSCL
trong
thập
niên
qua
đang
đứng
trước
thách
thức
lớn
từ
bên
ngoài
lẫn
nội
tại:
Biến
đổi
khí
hậu,
hạn
mặn,
sạt
lở,
ô
nhiễm
môi
trường,
ngập
lụt…
Ai
đã
sống
ở
Miền
Tây
sẽ
thấy
cảnh
này
diễn
ra
hàng
ngày.
Bên
trong
thì
tăng
trưởng
giảm
sút,
năng
lực
cạnh
tranh
của
DN
không
cao,
cấu
trúc
kinh
tế
chưa
ổn
định,
chất
lượng
nguồn
nhân
lực
thấp,
năng
suất
lao
động
thấp,
di
dân
gia
tăng…
Nhiều
điểm
nghẽn
như
chúng
ta
đã
biết
thiếu
quy
hoạch
đồng
bộ,
Logistic
yếu
kém
đã
làm
giảm
sức
cạnh
tranh
của
vùng.
Nhiều
chuyên
gia
cho
rằng
cấu
trúc
thể
chế
không
đáp
ứng
được
dẫn
đến
manh
mún
trong
nội
vùng,
càng
ngày
càng
thể
hiện
rõ.
Vậy
làm
sao
để
liên
kết?
Xin
được
mời
TS
Vũ
Thành
Tự
Anh
–
người
là
kinh
tế
trưởng
của
báo
cáo
Nghiên
cứu
về
ĐBSCL
của
Fulbrigh
và
VCCI
– nêu
ý
kiến.
TS
Vũ
Thành
Tự
Anh:
Chúng
tôi
nhận
thấy
qua
báo
cáo
kinh
tế
thường
niên
năm
2020
và
những
năm
trước,
các
khuôn
khổ
thể
chế
hành
chính
không
những
không
khuyến
khích,
không
hỗ
trợ
liên
kết
vùng
mà
còn
là
sự
chia
cắt.
Ví
dụ
vùng
kinh
tế
trọng
điểm
ĐBSCL
với
4
tỉnh
và
vùng
kinh
tế
trọng
điểm
Đông
Nam
Bộ
lại
có
Long
An,
Tiền
Giang.
Như
vậy
nội
tại
ĐBSCL
đã
bị
chia
cắt,
cạnh
đó
hệ
thống
chỉ
số
kinh
tế
cũng
chọn
địa
phương
là
đơn
vị
tính
toán
các
chỉ
số
quan
trọng
như
GDP.
Các
địa
phương
đua
nhau
về
thành
tích
là
GDP,
thành
tích
FDI,
xuất
nhập
khẩu…
Chính
vì
vậy
tỉnh
nào
cũng
lo
cho
mình
như
vậy,
nên
không
quan
tâm
đến
thành
quả
kinh
tế
các
tỉnh
xung
quanh,
của
vùng,
đặt
mình
vào
thế
cạnh
tranh
nhiều
hơn
hợp
tác,
đặc
biệt
là
kinh
tế.
Trong
khi
thách
thức
lại
là
thách
thức
của
cả
vùng:
biến
đổi
khí
hậu,
suy
giảm
chất
lượng
và
số
lượng
nước,
tài
khóa
xóa
đói
giảm
nghèo,
như
tạo
công
ăn
việc
làm
cho
lao
động
Đồng
bằng
(ĐB).
Và
đại
dịch
vừa
rồi
cho
thấy
hàng
triệu
người
đã
bị
ảnh
hưởng
hết
sức
nghiêm
trọng.
Thách
thức
thì
chung
mà
hợp
tác
lại
hạn
chế,
tất
cả
các
cơ
chế
Ban
chỉ
đạo
Tây
Nam
Bộ
trước
đây
đến
vùng
kinh
tế
trọng
điểm
hiện
nay
vẫn
chưa
đạt
mục
tiêu
đặt
ra.
Theo
tôi
có
3
công
cụ
quan
trọng
tạo
ra
sự
hợp
tác
vùng.
Đầu
tiên
là
quy
hoạch.
Trong
2
năm
qua
Bộ
KH-ĐT
phối
hợp
với
các
địa
phương
có
quy
hoạch
đầu
tiên
của
vùng
nhưng
cho
đến
nay
vẫn
chưa
được
thông
qua.
Một
điểm
quan
trọng
hơn
là
quy
hoạch
này
không
nói
lên
tiếng
nói
của
13
tỉnh
thành
địa
phương
và
cộng
đồng
DN
nên
vẫn
là
quan
điểm
từ
bên
ngoài
áp
đặt
vào
chứ
không
phải
của
các
tỉnh.
Công
cụ
thứ
2
là
các
chi
tiêu
công
đặc
biệt
đầu
tư
cơ
sở
hạ
tầng.
Vì
không
có
cơ
sở
hạ
tầng
thì
không
thể
kết
nối
được
các
hoạt
động
kinh
doanh
–
sản
xuất.
Các
cơ
sở
hạ
tầng
lớn
của
ĐBSCL
còn
nằm
trên
giấy
–
sân
bay,
cảng
biển,
đường
giao
thông…
–
nhữn
hợp
phần
tạo
1
thể
thống
nhất
của
nền
kinh
tế
ĐB
–
thì
rất
khó
cho
hoạt
động
liên
kết
có
tính
thị
trường
được
thực
hiện. Cản
trở
thứ
3
là
cơ
chế
tài
khoá,
đầu
tư
trung
và
dài
hạn,
tỉnh
nào
cũng
giành
giật
nguồn
lực
cho
mình,
không
cùng
nhau
vận
động
để
có
các
khoản
đầu
tư
lớn.
Chẳng
hạn
khi
thương
lượng
với
TW
thì
chắp
vá
mà
quên
mất
là
cần
cơ
sở
hạ
tầng
lớn
như
cao
tốc
TP.HCM
–
Cà
Mau,
tạo
xương
sống
vững
chắc
cho
vùng.
Đại
dịch
vừa
qua
cho
thấy
liên
kết
không
những
không
được
phát
huy
mà
còn
bị
phá
vỡ.
Nào
là
kiểm
soát
giao
thông,
Logistic,
không
chia
sẻ
thông
tin…
Bình
thường
thì
hợp
tác
nhưng
khi
“lâm
trận”
thì
mạnh
ai
nấy
lo
và
chuỗi
cung
ứng
bị
cắt
đứt.
Sau
20
năm
nghiên
cứu
và
quan
sát,
tôi
cho
rằng
cơ
chế
quan
trọng
nhất
của
liên
kết
chính
là
liên
kết
thị
trường,
kết
nối
các
tác
nhân
của
thị
trường,
nông
dân
–
DN.
Dù
hô
hào
địa
phương
hợp
tác,
có
các
biên
bản
ghi
nhớ
với
nhau,
với
TP
nhưng
mỗi
năm
cũng
chỉ
gặp
nhau
1
lần.
Liên
kết
thị
trường
là
nhu
cầu
thiết
thân,
đối
với
DN
thì
đó
chính
là
xương
sống.
DN
chính
là
trung
tâm
của
liên
kết
này,
hỗ
trợ
cho
thông
tin,
Logistic…
Tóm
lại
nếu
xây
dựng
thị
trường
theo
hướng
này
sẽ
làm
cơ
sở
cho
liên
kết
của
ĐB.
Nhận
dạng
ĐB
là
1
tổng
thể
nên
những
gì
liên
quan
đến
lợi
ích
hay
thách
thức
của
ĐB
đều
là
chung,
cần
sự
hợp
tác
như
biến
đổi
khí
hậu,
xâm
nhập
mặn,
nguồn
nước…
Dứt
khoát
phải
cần
sự
hợp
tác
của
các
tỉnh
ĐBSCL.
Một
yếu
tố
mà
chúng
tôi
quan
sát
được
mà
hiện
nay
chúng
ta
không
có,
đó
là
thương
hiệu
chung
Mekong
Delta
với
hệ
thống
cơ
sở
dữ
liệu
chung
nối
kết
với
các
cơ
sở
dữ
liệu
của
thương
mại
VN.
Tóm
lại,
cần
giải
quyết
3
nút
thắt:
(1)
làm
thế
nào
để
quy
hoạch
của
ĐB,
làm
sao
DN
các
địa
phương
có
tiếng
nói
(2)
tài
khóa
(3)
hợp
tác
để
có
các
khoản
đầu
tư
lớn.
Có
thể
kiến
nghị
TW
cho
ĐB
thí
điểm
quyền
lực
về
kế
hoạch,
quyền
lực
về
tài
khóa
và
quyền
lực
về
ngân
sách.
Cơ
chế
hiện
chưa
cho
phép.
Ông
Nguyễn
Phương
Lam:
Xin
được
mời
chuyên
gia
Phan
Chánh
Dưỡng
có
những
phân
tích
thêm
về
ý
kiến
của
TS
Vũ
Thành
Tự
Anh.
Chuyên
gia
Phan
Chánh
Dưỡng:
TP.HCM
muốn
phát
triển
thì
phải
tính
đến
mối
quan
hệ
hữu
cơ
của
các
vùng
xung
quanh
và
ngược
lại.
Nếu
ĐB
muốn
phát
triển
mà
không
có
TP
thì
sẽ
mất
đi
động
lực
phát
triển.
Chuyện
liên
kết
đã
nói
nhiều
năm,
15
năm
qua
vẫn
nói
liên
kết,
ai
cũng
thấy
đúng
nhưng
sau
khi
họp
về
liên
kết
xong
rồi
không
tiến
hành.
Chúng
ta
rất
giống
máy,
đẩy
đống
rác
từ
năm
nay
qua
năm
khác
đã
cao
đến
mức
trung
ương
nhận
ra
rồi.
Vùng
đất
này
có
vai
trò
quan
trọng
mà
hạ
tầng
lại
quá
kém.
Cuộc
họp
này
cần
thiết
cho
đến
khi
trung
ương
nhận
dạng
ra
vai
trò
của
vùng
đất
này
đối
với
cả
nước
nhưng
chưa
được
phát
huy
tiềm
năng.
Xin
không
nhắc
đến
phần
hạ
tầng.
Tôi
nêu
3
việc:
-Sau
Covid
chúng
ta
hiểu
sâu
sắc.
Nếu
chỉ
1
tháng
thì
dân
có
thể
chịu
đựng.
Tuy
nhiên
dịch
bệnh
này
không
thể
lường
được
bao
lâu.
Nếu
dịch
kéo
dài
thì
chúng
ta
sẽ
“chết”
vì
tan
rã
nền
kinh
tế.
Nên
phải
cần
thay
đổi
chống
dịch
và
đảm
bảo
kinh
tế.
Đảm
bảo
kinh
tế
thì
con
người
phải
dịch
chuyển,
hàng
hóa
phải
di
chuyển…
Vai
trò
phát
triển
kinh
tế
của
ta
trong
điều
kiện
hiện
nay.
Ngành
Logistic
rất
quan
trọng
vì
lưu
thông
hàng
hóa
và
lưu
thông
con
người
không
được
chậm
lại.
Logistic
phải
nhanh
hơn,
mạnh
hơn.
Chống
dịch
phải
trên
nền
tảng
Logistic.
Vậy
cần
làm
gì?
Mỗi
tỉnh,
thành
phố
phải
nghiên
cứu
được
cách
chống
dịch
đảm
bảo
được
Logistic
của
địa
phương.
Mỗi
tỉnh
đều
có
các
đầu
mối
liên
hệ.
Chuỗi
Logistic
này
tăng
sức
mạnh
cho
hàng
hóa
đi
nhanh
hơn.
Trong
điều
kiện
phát
triển
hiện
nay,
ĐBSCL
là
nơi
sản
xuất
ra
sản
phẩm
của
nông
lâm
ngư
nghiệp,
là
vựa
lúa
lớn
nhất
của
cả
nước.
Nhưng
vẫn
bán
thô.
Nên
chuỗi
giá
trị
cần
hướng
đến
người
tiêu
dùng
cuối
cùng.
Giá
trị
sẽ
gia
tăng
khi
chế
biến
sâu.
Không
thể
làm
nông
nghiệp
mà
nghèo
khổ.
-Ngành
học
–
sinh
học,
các
trường
đại
học
cần
khuyến
khích
học
sinh
đi
sâu
vào
ngành
này.
Một
điều
nói
vui
nhưng
chua
chát:
Qua
trận
dịch
này,
chúng
ta
thấy
virus
–
chỉ
là
đơn
bào,
trong
khi
con
người
lại
có
bộ
não,
được
xem
là
động
vật
cao
cấp,
nhưng
trận
chiến
này
không
biết
ai
thắng.
Qua
lăng
kính
con
virus,
ta
thấy
tốc
độ
là
sức
mạnh,
thích
nghi
là
tồn
tại.
Đó
là
bài
học
mà
chúng
ta
cần
học
từ
virus.
Kinh
tế
cũng
vậy:
Sức
mạnh
chính
là
tốc
độ,
thích
nghi
là
tồn
tại.
Ông
Phương
Lam:
Xin
được
hỏi
bà
Đỗ
Thu
Hường
–
Phó
Giám
đốc
Marketing
của
TCT
Tân
Cảng
Sài
Gòn,
đơn
vị
về
hạ
tầng
mạnh,
nhiều
cảng
biển
kết
nối
TP.HCM
với
các
địa
phương
và
với
ĐB:
Nhận
định
những
hạn
chế
của
vùng
và
hướng
phát
triển
Logistic
ở
ĐB
sắp
tới
như
thế
nào?
Bà
Đỗ
Thu
Hường:
Tân
Cảng
Sài
Gòn
là
đơn
vị
khai
thác
cảng
biển
hàng
đầu
VN,
có
sản
lượng
container
thông
quan
đứng
thứ
19/20
nhà
khai
thác
cảng
lớn
nhất
trên
thế
giới
và
là
nhà
cung
cấp
giải
pháp,
dịch
vụ
Logistic
cả
nước.
Thị
phần
của
chúng
tôi
chiếm
93%
container
xuất
nhập
khẩu
qua
các
cảng
và
52%
cảng
nước
sâu
Cái
Mép
Thị
Vải
và
51%
sản
lượng
container
khắp
cả
nước;
chúng
tôi
hệ
thống
cảng
biển
trải
dài
khắp
Bắc
Trung
Nam.
Tân
Cảng
Sài
Gòn
cũng
là
1
trong
7
sếu
đầu
đàn
trong
ngành
logistic.
ĐBSCL
là
vựa
lúa
gạo
của
cả
nước,
thủy
sản,
trái
cây.
Là
khu
vực
tập
trung
rất
nhiều
khách
hàng
của
Tân
Cảng,
các
Cty
Logistic,
Cty
fording.
Tân
Cảng
cũng
đã
đầu
tư
rất
nhiều
cảng
ở
ĐBSCL,
với
xu
hướng
“Đưa
cảng
đến
với
chân
hàng”,
như
Cái
Cui,
Sa
Đéc,
Gia
Long,
Thốt
Nốt…
để
kết
nối
với
khách
hàng
xuất
nhập
khẩu.
Tân
Cảng
cung
cấp
2
giải
pháp
cho
DN:
đường
bộ
và
đường
thủy.
Xin
nêu
những
vấn
đề
bất
cập,
đã
nói
rất
nhiều
mà
vẫn
phải
nói
lại
vì
vẫn
chưa
giải
quyết
được:
Đường
bộ:
Cả
hệ
thống
cơ
sở
hạ
tầng
đi
qua
nhiều
tỉnh
thành
mà
chưa
đồng
bộ,
chưa
phát
triển
đầy
đủ
nên
chi
phí
Logistic
rất
cao,
chiếm
20%
–
25%
chi
phí
giá
thành.
Như
thế
thì
làm
sao
DN
XNK
VN
có
được
lợi
thế
cạnh
tranh
trên
thế
giới.
Phải
có
chính
sách
làm
sao
để
hoàn
thiện,
nâng
cấp
cơ
sở
hạ
tầng
đường
bộ.
DN
mong
chờ
khi
nào
thì
cao
tốc
Trung
Lương
–
Mỹ
Thuận
–
Cần
Thơ
được
hoàn
thiện
để
các
DN
giảm
được
chi
phí
Logistic.
Đường
thủy:
Về
lý
thuyết,
hỗ
trợ
được
đường
bộ,
phù
hợp
với
Logistic
xanh,
sử
dụng
đường
thủy
nhiều
hơn
đường
bộ,
chi
phí
đầu
tư
cơ
sở
hạ
tầng
thấp.
Nhưng
thực
tế,
đội
xà
lan
kết
nối
khách
hàng,
kết
nối
container
từ
ĐBSCL
về
cảng
TP,
Cát
Lái
và
Cái
Mép
thì
gặp
phải
nhiều
khúc
cua,
khúc
hẹp,
độ
tĩnh
không…
DN
chỉ
có
thể
dùng
xà
lan
nhỏ.
Như
vậy
mong
chờ
của
DN
Logistic
là
nâng
cấp
được
hạ
tầng
của
đường
thủy.
Vấn
đề
thu
hút
đầu
tư:
Nên
nghĩ
đến
việc
thu
hút
đầu
tư
của
các
Cty
dịch
vụ
Logistic
quốc
tế,
hãng
tàu,
họ
sẽ
đầu
tư
cơ
sở
hạ
tầng
Logistic
ở
ĐBSCL
mới
có
thể
kết
nối
với
các
cảng
hiện
hữu
của
khu
vực
TP
và
Cái
Mép.
Ví
dụ,
Tân
Cảng
Sài
Gòn
sau
nhiều
năm
đồng
hành
với
các
hãng
tàu
và
đàm
phán
đưa
họ
đến
“tận
chân
khách
hàng”
ở
ĐBSCL
để
họ
cần
mở
code
container
rỗng
tại
đây
để
khách
hàng
có
thể
giao
nhận
container
rỗng
thật
thuận
tiện.
Nhiều
năm
vẫn
chưa
có
kết
quả,
cho
đến
tháng
9
vừa
rồi
Hãng
tàu
Freeland
đã
mở
code
ở
Cái
Cui
–
điều
này
rất
thuận
lợi
cho
các
mặt
hàng
thủy
sản,
vì
họ
hạ
hàng
ở
đây,
lấy
cont
rỗng
kết
nối
với
TP.
Nên
có
chính
sách
thu
hút
đầu
tư
với
hãng
tàu,
Logistic,
họ
có
thể
phát
triển
thêm
kho,
nhất
là
kho
lạnh
vì
đang
rất
thiếu.
Liên
kết
vùng:
Chúng
tôi
cung
cấp
phương
tiện,
nhưng
hạ
tầng
Logistic
bị
“ngăn
sông
cấm
chợ”,
đường
bộ
lẫn
đường
thủy
đã
ảnh
hưởng
rất
lớn
đối
với
DN
Logistic.
Tóm
lại:
Thu
hút
nhà
đầu
tư
lớn
để
phát
triển
cơ
sở
hạ
tầng
ở
ĐBSCL
sẽ
là
cơ
hội
Logistic
và
thúc
đẩy
sự
phát
triển
của
các
DN.
Thu
phí
cơ
sở
hạ
tầng
cảng
thì
DN
vẫn
ủng
hộ
vì
sẽ
tạo
ngân
sách
phát
triển
Logistic.
Tuy
nhiên,
đối
với
khu
vực
ĐBSCL
mong
muốn
được
giảm
chi
phí
phần
nào.
Ông
Nguyễn
Phương
Lam:
Tôi
xin
cung
cấp
nhiều
thông
tin
không
mới
có
thể
làm
chúng
ta
bất
ngờ:
Thứ
nhất,
ĐBSCL
tuy
được
xem
là
vùng
trù
phú, hay
cách
khác
gọi
là
vùng
giàu
có
về
tài
nguyên
nhưng
thực
tế
lại
là
vùng
nghèo
nhất
cả
nước.
Trong
Báo
cáo
kinh
tế
thường
niên
nêu
ra
GDP
năm
1990
của
TP.HCM
chỉ
bằng
2/3
GDP
ĐBSCL,
nhưng
sau
20
năm
thì
GDP
của
13
tỉnh
chỉ
bằng
1/3
GDP
của
TP.HCM.
Như
vậy
ĐBSCL
phát
triển
chậm
dần
đều
so
với
khu
vực
và
TP.
Thứ
hai,
dù
ĐB
có
sông
nước
nhưng
chi
phí
vận
tải
đường
thủy
cao
hơn
đường
bộ.
Thứ
ba,
tuy
gần
TP
nhưng
đi
lại
lâu
hơn.
Trong
trạng
thái
bình
thường,
cận
Tết,
1
container
chở
hàng
từ
Cần
Thơ,
Bạc
Liêu,
Sóc
Trăng
về
TP
bằng
TP
đi
Đà
Nẵng,
dù
cạnh
bên
chưa
đến
200
km.
Chuyện
này
khiến
ta
trăn
trở.
Thứ
tư,
đây
là
nguồn
cung
ứng
dồi
dào
nhưng
lại
thiếu
lao
động.
Những
điều
trên
là
hệ
quả
của
sự
thiếu
phối
hợp
để
đưa
ĐB
về
đúng
tiềm
năng
của
nó.
Xin
được
hỏi
ông
Bùi
Tá
Hoàng
Vũ,
cơ
quan
giữ
vai
trò
kết
nối
DN
trong
lĩnh
vực
thương
mại.
Xin
được
đặt
ra
liên
kết
thị
trường
–
phần
mà
ông
Vũ
Thành
Tự
Anh
đã
nói
trên,
câu
chuyện
liên
kết
trong
dịch
đã
bộc
lộ
ra
là
bị
đứt
gãy
chuỗi
cung
ứng
hàng
hóa.
ĐB
là
nơi
cung
ứng
lương
thực
thực
phẩm,
sản
phẩm,
nguyên
liệu
đầu
vào
cho
TP
nhưng
TP
cũng
là
thị
trường
của
ĐB.
Vậy
làm
sao
để
liên
kết
TP
và
ĐB
ngày
một
hiệu
quả
hơn?
Ông
Bùi
Tá
Hoàng
Vũ
–
Giám
đốc
sở
công
thương:
Xin
trả
lời
ngắn
gọn:
Nếu
chúng
ta
thực
hiện
được
3
việc
TS
Vũ
Thành
Tự
Anh
nói,
3
việc
của
chuyên
gia
Phan
Chánh
Dưỡng
nêu
và
2
gợi
ý
của
chị
Hường
của
Tân
Cảng
Sài
Gòn
thì
chúng
ta
sẽ
liên
kết
được.
Tôi
xin
nói
về
góc
độ
khác.
Nếu
chỉ
nêu
vấn
đề
thì
không
có
lối
thoát
vì
rất
khó
thay
đổi
các
cơ
chế
pháp
luật.
Tôi
là
người
hiểu
rất
rõ
những
nỗi
khó
khan,
nhất
là
TP
bị
tác
động
lúc
dịch
bệnh.
Hàng
hóa
dư
thừa
ở
vùng
sản
xuất
nhưng
TP
thiếu,
giá
ở
vùng
sản
xuất
thấp,
còn
TP
lại
rất
cao,
chúng
ta
không
tạo
điều
kiện
Logistic
kết
nối,
không
tạo
điều
kiện
cho
DN
liên
kết.
Tôi
cũng
công
tác
ở
nhiều
môi
trường,
khi
công
tác
ở
sở
du
lịch,
nếu
không
có
liên
kết
thì
không
thể
phát
triển
nếu
chỉ
quảng
bá
du
lịch
TP.
Kết
nối
và
trải
nghiệm
của
khách
du
lịch
phải
từ
đi
tour
liên
tuyến
từ
đường
không,
đường
thủy,
đường
bộ…
Chúng
ta
có
khát
vọng
nhưng
cơ
chế
nào
cho
phép
làm?
Hội
đồng
vùng
thì
không
có
cơ
chế
ràng
buộc.
Các
thể
chế
khác
trước
đó
cũng
vậy.
Tôi
xin
ghi
nhận
và
thảo
luận
cùng
mọi
người.
Tôi
cũng
đang
được
giao
nhiệm
vụ
tham
mưu
phát
triển
Logistic
cho
TP.HCM.
Ông
Nguyễn
Phương
Lam:
Cần
cơ
chế
phối
hợp.
Tôi
đã
đặt
vấn
đề
này
rất
nhiều
với
các
cơ
quan
nhà
nước.
Nhất
là
lúc
dịch
bệnh
thì
rất
loay
hoay
trong
địa
bàn
của
mình,
tôi
đã
cùng
chủ
tịch
UBND
tỉnh
Sóc
Trăng
đề
nghị
các
tỉnh
Nam
sông
Hậu
ngồi
với
nhau,
mất
2
tháng
mới
ngồi
lại
với
nhau
1
hội
nghị
trao
đổi
rất
kỹ
nhưng
rồi
mạnh
ai
nấy
về
tự
bảo
vệ.
Nên
rất
cần
một
cơ
chế!
Khi
đặt
ra
với
DN
là
cần
hình
thành
chuỗi
ngành
để
liên
kết,
thì
DN
cũng
nói
là
hợp
tác
tốt,
nhưng
hiện
hữu
vẫn
xảy
ra,
tức
không
hợp
tác,
đứt
gãy
vẫn
xảy
ra.
Xin
hỏi
doanh
nhân
Nguyễn
Đình
Tùng
nhận
xét
việc
này
thế
nào
trong
ngành
rau
củ
và
nhận
định
sự
liên
kết
trong
ngành?
Ông
Nguyễn
Đình
Tùng
–
CEO
Vina
T&T:
Những
ngày
đầu
tôi
làm
trái
cây
liên
kết
với
HTX.
Khi
qua
Mỹ,
tôi
thấy
nhãn
bán
rất
tốt,
rổ
nhãn
có
giá
13,5
USD/rổ/10kg
mà
lại
là
nhãn
Trung
Quốc,
đó
là
năm
2016.
Khi
tìm
hiểu
tại
VN
thì
biết
Trung
Quốc
nhập
nhãn
từ
VN,
xong
lại
xuất
đi
Mỹ.
Tôi
thắc
mắc
VN
được
phép
xuất
nhãn
qua
Mỹ
từ
2013
mà
sao
đến
2016
vẫn
chưa
có
trái
nhãn
nào
xuất
được.
Sau
đó
chính
tôi
đã
làm
thử
khi
lên
nhà
máy
diệt
khuẩn
chiếu
xạ
thì
giá
đã
là
15USD/rổ
nhãn
5kg.
Tôi
đi
vào
Cái
Tàu
Hạ
thì
thấy
nhãn
rất
rẻ,
tính
toán
bán
qua
vẫn
có
lời.
Trung
Quốc
xử
lý
công
nghệ
hơi
nước
nóng
thì
không
bằng
công
nghệ
của
mình.
Nhưng
qua
rất
nhiều
thương
lái,
qua
DN
các
tỉnh,
lên
tới
DN
xuất
khẩu
thì
giá
bị
đội.
Chuỗi
liên
kết
mà
ai
cũng
muốn
lời,
cuối
cùng
sản
phẩm
VN
không
bán
được.
Không
bán
được
thì
chả
ai
lời.
Tôi
mua
trực
tiếp
tận
vườn
để
làm
nhưng
bài
toán
tiếp
tục
là
loại
2,
loại
3
thì
giải
quyết
làm
sao.
HTX
không
chịu
liên
kết,
vườn
10
tấn
anh
mua
5
tấn
xuất
đi,
vậy
còn
lại
thì
sao.
Thương
lái,
Cty
phân
bón
can
thiệp
sâu
vô
HTX,
phá
hỏng
chuỗi
liên
kết.
Lúc
đó
tối
đã
khám
phá
ra
nếu
không
thỏa
mãn
lợi
ích,
cho
cả
DN
lẫn
HTX
thì
không
thể
liên
kết.
Tôi
chọn
5
nhà
tiến
bộ
nhất,
họ
cũng
muốn
làm
với
danh
tiếng
hàng
xuất
đi
Mỹ.
Tôi
lên
chợ
đầu
mối
để
liên
kết
giải
quyết
hàng
loại
2,
liên
kết
với
cơ
sở
chế
biến
làm
nhãn
sấy
để
xử
lý
nhãn
loại
3.
Hình
thành
liên
kết
xong
tôi
quay
lại
HTX,
sau
đó
các
thành
viên
khác
trong
HTX
thấy
làm
được
thì
họ
chịu
hợp
tác
với
mình.
Đương
nhiên
một
mình
HTX
hay
DN
không
thể
làm
hết
nên
phải
chia
sẻ
lợi
nhuận.
Chuyện
thứ
hai:
Vina
T&T
trong
dịch
vừa
qua
vẫn
xuất
hàng
đi
đều
đặn,
nhưng
nói
thật
là
rất
khó
khăn
do
bị
phong
tỏa.
Thanh
nhãn
ở
Nông
trường
Sông
Hậu
đã
đến
thời
điểm
thu
hoạch,
xe
vô
Cần
Thơ
không
được
ra,
người
địa
phương
khác
đến
thu
hoạch
thì
không
thể
đi
ra.
Phải
nhờ
tổ
970
của
Bộ
nông
nghiệp
hỗ
trợ,
cho
phép
người
test
PCR
vào
vườn
ở
lại
trong
vườn,
phải
được
xe
tỉnh
đội
đưa
đi.
Trong
điều
kiện
bình
thường
thì
không
thấy
gì
nhưng
trong
đại
dịch
thì
thấy
kết
quả
này
rất
tự
hào.
Vú
sữa
bán
ở
Mỹ
là
500
ngàn/ký,
trong
khi
ở
vườn
chỉ
có
40
ngàn/ký.
Tại
sao
lại
vậy.
Tất
cả
nằm
trong
chi
phí
Logistic.
Trong
khi
mình
có
cả
nghìn
tấn
mà
chỉ
đi
được
10
tấn/tuần
bằng
đường
hàng
không,
giá
thì
trên
trời.
Vận
chuyển
đường
biển
hiện
hãng
tàu
từ
chối
hàng
nông
sản
VN.
Hàng
hóa
dư
thừa
phải
đem
chế
biến
và
cấp
đông…
Tuy
năng
lực
của
Vina
T&T
cung
cấp
100%
nhưng
chỉ
đáp
ứng
60%
nhu
cầu
của
khách
là
do
Logistic
cả
nội
địa
và
quốc
tế.
Ông
Phương
Lam:
Câu
chuyện
của
anh
Tùng
rất
thú
vị
để
đưa
vào
nghị
sự
tiếp
theo.
Thứ
nhất,
cần
có
liên
kết
mẫu
để
người
nông
dân
hay
DN
(chưa
thấy,
ngại
tham
gia)
tham
khảo.
Thứ
hai,
trách
nhiệm
của
các
bên
khi
tham
gia
liên
kết
phải
rất
cao.
Như
năm
2006
việc
phá
vỡ
hợp
đồng
giữa
DN
và
hộ
nuôi
ở
ĐBSCL
diễn
ra
rất
nhiều
nên
chúng
tôi
đã
nghiên
cứu
và
thấy
rằng,
do
khả
năng
chế
tài
luật
chưa
đủ
mạnh,
khi
đụng
đến
nông
dân
lại
là
nhóm
yếu
thế
nên
rất
cân
nhắc,
ngược
lại
DN
lại
không
thể
hiện
vai
trò
của
mình,
nên
hợp
tác
thường
gãy
đổ.
Thứ
3,
điểm
yếu
của
logistic
–
điểm
yếu
chí
tử
khiến
liên
kết
không
thực
hiện
được.
Xin
được
hỏi
Doanh
nhân
Phan
Minh
Thông
–
CEO
Phúc
Sinh
dưới
góc
nhìn
của
nhà
đầu
tư
thì
ĐBSCL
phải
làm
gì
để
đáp
ứng
nhu
cầu
của
nhà
đầu
tư?
Ông
Phan
Minh
Thông
–
CEO
Phúc
Sinh:
Phúc
Sinh
là
Cty
cổ
phần
tư
nhân
20
năm
trong
lĩnh
vực
nông
nghiệp,
có
6
nhà
máy,
mỗi
năm
xuất
250
–
300
triệu
USD.
Phúc
Sinh
đầu
tư
Sơn
La
khá
xa
xôi,
bay
ra
HN
mất
2
tiếng
và
lên
Sơn
La
7
tiếng.
Sơn
La
trồng
cà
phê
30
–
40
năm
mà
người
HN
gần
như
không
biết.
Nhiều
người
từ
Sơn
La
đem
cà
phê
vào
Lâm
Đồng
để
bán.
Phúc
Sinh
thấy
tiềm
năng
nên
đã
đầu
tư
nhà
máy,
mời
chuyên
gia
và
máy
móc
Columbia
để
xây
dựng
nhà
máy,
năm
2018,
6-7
nghìn
đồng/ký
và
hiện
nay
20
nghìn/ký
cà
phê.
Hiện
Phúc
Sinh
có
cụm
nhà
máy
Bình
Dương,
mua
cơm
dừa
ở
Bến
Tre.
Có
người
hỏi,
không
hiểu
sao
Phúc
Sinh
vẫn
chưa
có
nhà
máy
nào
ở
ĐBSCL?
Thứ
nhất
chưa
bao
giờ
được
mời
tham
gia
hoạt
động
xúc
tiến
nào.
Đây
cũng
là
lần
đầu
tham
dự
một
kết
nối.
Thứ
hai
không
thể
chấp
nhận
đi
từ
TP.HCM
về
Cà
Mau
mà
mất
hơn
5
tiếng
đồng
hồ,
mất
cả
ngày
như
thế
còn
làm
ăn
gì!
Thứ
ba
là
giấy
phép.
Tại
sao
xuất
khẩu
gạo
phải
có
giấy
phép,
trong
khi
gạo
có
rất
nhiều.
Mình
muốn
xây
nhà
máy
và
làm
thương
hiệu
gạo
nhưng
mình
vẫn
làm
với
cà
phê.
Theo
tôi,
nên
tận
dụng
nguồn
DN
ở
TP.HCM,
thuyết
phục
DN
đầu
tư
như
trước
đây
Phúc
Sinh
đầu
tư
Sơn
La
đã
được
hỗ
trợ.
Bí
thư
tỉnh
đã
vào
SG
bao
nhiêu
lần
mà
không
có
DN
nào
chịu
ra,
khi
gặp
Phúc
Sinh
ngay
hôm
sau
đã
ký
MOU
và
8
tháng
sau
đã
có
nhà
máy,
năm
nào
cũng
có
lợi
nhuận,
đã
có
thương
hiệu
cà
phê
Sơn
La
và
người
dân
được
hưởng
lợi.
Ông
Nguyễn
Phương
Lam:
Tôi
đại
diện
cơ
quan
xúc
tiến
mà
thấy
có
lỗi
vì
đã
không
mời
được
những
nhà
đầu
tư
như
Phúc
Sinh.
Chúng
tôi
phản
đối
quyết
liệt
để
bãi
bỏ
giấy
phép
xuất
khẩu
gạo,
sau
2
năm
bãi
bỏ
thì
giờ
lại
quay
lại.
Xin
hỏi
chuyên
gia
Phan
Chánh
Dưỡng:
ĐBSCL
là
nhiều
mảnh
ghép
do
chia
cắt
địa
giới
hành
chính
có
cần
chính
quyền
cấp
vùng
hay
không?
Đây
là
câu
hỏi
lớn,
tất
nhiên
sẽ
không
thể
trong
1-2
năm
để
hình
thành
được
cơ
quan
cấp
vùng
hoạt
động
hiệu
quả.
Trước
đây
có
BCĐ
vùng,
giờ
là
Hội
đồng
vùng
nhưng
vẫn
chưa
thấy
khai
thác
tối
đa
cơ
chế
vùng.
Ý
kiến
của
ông
thế
nào?
Chuyên
gia
Phan
Chánh
Dưỡng:
Bất
kỳ
cuộc
cải
cách
nào
cũng
không
thể
phủ
nhận
thực
trạng
lịch
sử
để
lại.
Không
chỉ
riêng
ĐBSCL,
theo
cách
nhìn
lý
tưởng
của
mình,
Việt
Nam
với
340
nghìn
km2
và
100tr
dân
thì
chỉ
cần
chia
thành
8-12
vùng
là
đủ.
63
tỉnh
thành
là
quá
manh
mún
nhưng
làm
cách
nào
được,
đó
là
thực
trạng.
Không
dám
nói
thay
đổi
8
-12
vùng
là
sẽ
mạnh.
Nên
theo
ý
tôi,
từng
bước
dẹp
gọn
lại
tỉnh
thành
chỉ
quản
lý
hành
chính,
còn
kinh
tế
thì
chia
từng
vùng.
Nhà
nước
phải
hình
thành
vùng
kinh
tế
có
cơ
chế
lãnh
đạo
rất
cao,
có
quyền
về
tài
chính
độc
lập,
đầu
tư
và
kế
hoạch
toàn
vùng
là
thống
nhất.
Đương
nhiên
gắn
kết
toàn
vùng
phải
gắn
kết
với
quốc
gia.
Nhận
dạng
rất
rõ
một
điều:
Vai
trò
của
DN
là
nòng
cốt
cho
tất
cả
những
cái
khác.
Nhà
nước
là
người
tạo
mọi
điều
kiện
pháp
lý
để
DN
làm
đúng,
còn
làm
cách
nào
thì
DN
là
người
hiểu
biết
nhất
nên
làm
gì,
chắc
chắn
sức
mạnh
của
kinh
tế
là
tốc
độ.
Cứ
có
1
giấy
phép,
1
chữ
ký
là
có
thêm
delay
time
–
thời
gian
ngừng
lại,
nhiều
thời
gian
chết.
5g
chiều
mà
có
giấy
phép
thì
tối
hàng
đi.
Trước
4g
chứ
sau
4g
là
để
ngày
hôm
sau.
Cả
nước
này
đều
mất
1
buổi
cho
1
giấy
phép,
chỉ
vì
1
giấy
phép,
tốc
độ
nền
kinh
tế
đi
2
bước,
lùi
3
bước.
Tôi
đã
từng
là
doanh
nhân,
tôi
đau
lòng
vì
mất
thời
gian.
Ông
Nguyễn
Phương
Lam:
Xin
đặt
câu
hỏi
với
anh
Bùi
Tá
Hoàng
Vũ:
ĐBSCL
chưa
có
gì
là
Logistic,
chỉ
là
kho
bãi,
trong
khi
TP
đã
có
rồi.
Liệu
sắp
tới
TP
có
là
địa
phương
dẫn
dắt
ĐBSCL
không?
Ông
Bùi
Tá
Hoàng
Vũ:
Chúng
tôi
đã
hình
thành
đề
án
Logistic
TP.HCM
5
năm
và
tầm
nhìn
10
năm.
TP
đã
xác
định
Logistic
như
1
trong
9
ngành
dịch
vụ
chủ
lực
của,
đã
hình
thành
9
trung
tâm
Logistic,
ứng
dụng
công
nghệ
thông
tin
tạo
dữ
liệu
lớn,
tập
trung
đầu
tư
nguồn
nhân
lực,
liên
kết
vùng.
Trước
hết,
TP.HCM
phải
tự
mình
vươn
lên
đóng
vai
trò
quan
trọng.
Logistic
phục
vụ
cho
không
gian
kinh
tế
mà
TP
lại
có
lợi
thế
khi
có
không
gian
kinh
tế
có
quy
mô.
Sắp
tới
TP
sẽ
thay
thế
cảng
bên
sông,
hình
thành
chuỗi
của
cảng
sông,
cảng
biển
phối
hợp
với
vùng.
Ông
Phương
Lam:
Tôi
có
câu
hỏi
dành
cho
cả
3
DN,
chính
các
DN
đều
thấy
mình
có
vai
trò
quan
trọng
trong
liên
kết,
vậy
liên
kết
bắt
đầu
từ
đâu?
Ông
Phan
Minh
Thông: Liên
kết
xuất
phát
từ
nhu
cầu
của
mình,
mình
thấy
cần
làm
là
sẽ
làm,
mình
tác
động
vào
quá
trình
để
biến
nó
thành
tốt
hơn
thì
liên
kết
sẽ
tốt
hơn.
Ông
Phan
Đình
Tùng:
Liên
kết
dựa
trên
lợi
ích
của
các
bên,
thị
trường
có
nhu
cầu
thì
có
người
cung
cấp,
người
cung
cấp
sẽ
liên
kết
lại
với
nhau.
Tuy
nhiên
cái
khó
là
làm
sao
trong
cùng
1
thị
trường
mà
liên
kết
được
với
nhau.
Nên
có
nhiều
hiệp
hội
nhưng
chưa
phát
huy
được,
trong
khi
hiệp
hội
thế
giới
làm
rất
tốt.
Cùng
ngành,
cùng
thị
trường
mà
vẫn
liên
kết
được.
Tôi
có
thể
liên
kết
trong
chuỗi
nhưng
không
thể
liên
kết
với
cty
giống
như
cty
tôi,
tuy
bán
cùng
thị
trường
thì
vẫn
giữ
được
giá
trị
sản
phẩm
để
chia
sẻ
với
người
nông
dân.
Dẫm
chân
nhau
là
chết
không
phải
chỉ
quốc
tế
mà
còn
nội
địa.
Bà
Đỗ
Thu
Hường:
Cảng
Cái
Mép
chính
là
liên
kết
giữa
công
ty
Tân
Cảng
Sài
Gòn
với
các
hãng
tàu
lớn
trên
thế
giới
với
mục
đích
đi
cùng
nhau
tạo
được
thành
tựu
to
lớn,
khi
hợp
tác
mà
có
thành
quả
thì
chia
sẻ
lợi
ích
với
nhau.
Thay
vì
cạnh
tranh
thì
ta
lại
liên
kết.
Ông
Phan
Chánh
Dưỡng:
Hãy
nghĩ
thật
sâu
trong
chuỗi
giá
trị,
như
chuỗi
giá
trị
trái
cây
đến
tận
cùng.
Trước
là
gì,
sau
là
gì.
Hay
như
Logistic
cũng
vậy.
Câu
chuyện
của
tôi
khi
làm
khu
chế
xuất
Tân
Thuận.
Tôi
xuống
vùng
Nhà
Bè
tôi
đã
nghĩ,
nếu
thất
bại
thì
thôi,
nếu
thành
công
thì
cái
gì
tiếp
tục
phải
làm?
Đó
là
phát
triển
toàn
vùng
Nhà
Bè
và
nếu
phát
triển
toàn
vùng
thì
cần
con
đường
rất
lớn,
rộng,
đó
là
đường
Nguyễn
Văn
Linh.
Đã
có
nhiều
tranh
cãi,
anh
làm
gì
mà
cần
con
đường
to
như
vậy,
nhưng
ý
của
tôi,
vì
con
đường
đó
để
phát
triển
vùng
Nhà
Bè
chứ
không
phải
chỉ
có
KCX.
Dọc
theo
con
đường
này
cấu
tạo
khu
đô
thị
mới,
và
đó
là
Nam
Sài
Gòn,
sau
Nam
Sài
Gòn
sẽ
phát
triển
ra
Thủ
Thiêm.
Mà
nếu
Thủ
Thiêm
hình
thành
thì
Cảng
Sài
Gòn
phải
rời
khỏi
Sông
Sài
Gòn.
Như
vậy
một
cảng
khác
thế
cho
cảng
Sài
Gòn,
và
đó
chính
là
vùng
Hiệp
Phước
và
cảng
Hiệp
Phước.
Cho
nên
khi
phác
họa
trước
như
vậy
cho
chúng
ta
cái
nhìn
rất
rộng
mà
chương
trình
làm
KCX
của
tôi
là
điểm
bắt
đầu
cho
ý
tưởng
phát
triển
thành
phố
hướng
về
biển
Đông.
Kết
quả
của
một
ý
tưởng
mới
về
mặt
tư
duy
tạo
ra
giá
trị
vô
hình
lớn
gấp
nhiều
lần
so
với
giá
trị
thật
và
chất.
Ở
VN
chỗ
nào
cũng
phát
triển
được,
miễn
là
đúng
địa
điểm,
đúng
thời
cơ,
DN
nên
tư
duy
như
vậy,
tham
gia
vào
chuỗi
giá
trị,
chuỗi
Logistic,
phải
vào
thực
tiễn
mới
có
sáng
tạo.
Ông
Phương
Lam:
Xin
được
tóm
lại
các
ý
kiến
đóng
góp
của
các
chuyên
gia,
doanh
nghiệp
và
nhà
quản
lý.
Dưới
góc
độ
chuyên
gia:
-Cần
có
1
thể
chế
vùng
-Xác
định
các
vấn
đề
để
liên
kết
hiệu
quả
hơn,
như
là
hình
thành
cơ
chế
quản
lý
cấp
vùng
theo
hành
chính
và
theo
kinh
tế
-Cần
tầm
nhìn
về
lợi
ích
chung
-Hình
thành
cơ
chế
giám
sát
để
thúc
đẩy
thực
thi
kế
hoạch
Dưới
góc
độ
doanh
nghiệp,
để
liên
kết
hiệu
quả:
-Xuất
phát
nhu
cầu,
thống
nhất
mục
tiêu
và
hưởng
lợi
-Trách
nhiệm
của
các
bên
trong
liên
kết
để
liên
kết
bền
vững
Dưới
góc
độ
quản
lý,
thông
tin
là
TP.HCM
đã
có
chiến
lược
phát
triển
Logistic
cụ
thể
làm
nền
tảng
trợ
lực
cho
ĐB
phát
triển.
Còn
lại
là
chương
trình
nghị
sự
triển
khai.
Nguồn
tin:
BSA