Tây
Nam
Bộ
được
đánh
giá
là
chưa
khai
thác
tốt
các
tiềm
năng
lợi
thế
của
mình.
Việc
áp
dụng
KHCN
vào
sản
xuất,
nuôi
trồng,
chế
biến
còn
nhiều
hạn
chế.
Hàm
lượng
KHCN
trong
giá
trị
sản
phẩm
chưa
cao,
chuỗi
cung
ứng
trong
sản
xuất
nông
nghiệp
vẫn
chưa
hoàn
chỉnh.
Bộ
trưởng Nguyễn
Quân định
hướng:
Chương
trình KHCN Tây
Nam
Bộ
nằm
trong
chương
trình
lớn
của
quốc
gia
triển
khai
tại 03
vùng
(Tây
Bắc,
Tây
Nguyên
và
Tây
Nam
Bộ).
Bộ KH&CNcam
kết
sẽ
đồng
hành
cùng
các
nhà
khoa
học,
địa
phương
để
hoàn
hành
các
mục
tiêu
mà
chương
trình
đã
đề
ra.
Bộ
trưởng
Nguyễn
Quân
phát
biểu
chỉ
đạo
tại
hội
thảo
Chương
trình
5
năm,
bắt
đầu
từ
tháng
12.2014
đến
12.2019
hướng
tới ba mục
tiêu:
1/
Hoạch
định
và
xây
dựng
chính
sách,
chiến
lược
phát
triển
bền
vững
vùng
Tây
Nam
Bộ
đến
năm
2030,
tầm
nhìn
đến
2050;
2/
Đề
xuất
các
giải
pháp KHCN liên
ngành
để
thúc
đẩy
liên
kết
nội
vùng
và
liên
kết
vùng;
3/
Triển
khai
hiệu
quả
các
giải
pháp KHCN phục
vụ
phát
triển
kinh
tế-xã
hội
cho
vùng
Tây
Nam
Bộ.
TS
Lê
Xuân
Niệm,
phó
giám
đốc sở KH&CN tỉnh
Kiên
Giang
đề
xuất,
chương
trình
bổ
sung
nghiên
cứu hai vấn
đề:
1/
Phương
pháp
đánh
giá
công
nghệ
trên
các
sản
phẩm
chủ
lực
của
vùng
Tây
Nam
Bộ
(lúa,
trái
cây,
thủy
sản);
2/
Đánh
giá
hàm
lượng KHCN cho
từng
sản
phẩm
nêu
trên.
Theo
ông
Dương
Nghĩa
Quốc,
giám
đốc sở KH&CN tỉnh
Đồng
Tháp,
làm
sao
để KHCN đóng
góp
vào
tái
cơ
cấu
nông
nghiệp,
mô
hình
nào
giúp
tăng
trưởng
ngành
nông
nghiệp,
ứng
dụng,
chuyển
giao
KHCN,
nghiên
cứu
đi
kèm
với
ứng
dụng
ngay,
sớm
chứ
không
đợi
đến
kết
thúc
chương
trình….
Ông
Quốc
nhấn
mạnh: “Phải
có
sự
tham
gia
của
doanh
nghiệp!”
“Cách
làm
là
lấy
đóng
góp,
đề
xuất
của
các
địa
phương
làm
trọng
tâm.
KHCN
về
với
đồng
bằng
và
chính
các
địa
phương
sẽ
lên
tiếng
mình
cần
gì,
địa
phương
sẽ
là
người
đánh
giá,
nghiệm
thu
các
đề
tài
từ
chương
trình”.
Ông
Phan
Thanh
Bình, giám
đốc đại
học
Quốc
gia
thành
phố
Hồ
Chí
Minh,
đồng
chủ
nhiệm
chương
trình, nói. Ông
Nguyễn
Xuân
Thắng, chủ
tịchviện
Hàn
lâm
Khoa
học
và
Xã
hội
Việt
Nam,
đồng
chủ
nhiệm
chương
trình
cho
biết,
trong
năm
tới, hai đơn
vị
chủ
trì
chương
trình
sẽ
phân
chia
công
việc,
mỗi
bên
dự
kiến
triển
khai
15 -16
đề
tài
trên
tinh
thần
rà
soát,
nghiên
cứu,
lược
khảo,
kế
thừa
những
gì
đã
có
sẵn.
Các
năm
tiếp
theo
sẽ
bắt
đầu
đi
sâu
vào
từng
nội
dung
cụ
thể
(kinh
tế,
nông
nghiệp,
hạ
tầng,
nhân
lực,
văn
hóa
xã
hội,
dịch
vụ,…). Về
kinh
phí,
ông
Thắng
cho
biết,
sẽ
lấy
từ
nguồn
ngân
sách
nhà
nước.
Kinh
phí
bao
nhiêu
còn
phụ
thuộc
vào
kết
quả
của
ban
chủ
nhiệm
chương
trình
sau
khi
xác
định
các
nhiệm
vụ
KHCN,
căn
cứ
vào
dự
toán
thực
tế.
PGS
TS
Nguyễn
Văn
Sánh,
Viện
trưởng
Viện
nghiên
cứu
phát
triển
ĐBSCL
–
trường
Đại
học
Cần
Thơ
cho
biết: Thực
ra
một
số
đề
tài
nghiên
cứu
(liên
kết,
sản
xuất,
tiêu
thụ,
thực
trạng
sản
xuất
nông
nghiệp,
nông
thôn
ĐBSCL)
đã
có
sẵn,
nếu
chương
trình
cần
thì
phía
trường
sẵn
sàng
hỗ
trợ
để
tiết
kiệm
thời
gian,
chi
phí,
tránh
sự
trùng
lặp
trong
quá
trình
triển
khai.