Tỷ
giá
giảm
bởi
cung
ngoại
tệ
tăng
do
kiều
hối,
cùng
nhu
cầu
người
dân
đổi
ngoại
tệ
sang
tiền
đông
chi
tiêu
dịp
Tết,
và
nhu
cầu
USD
để
nhập
khẩu
hàng
hóa
nguyên
liệu
của
DN
giảm
mạnh.
Chìm
trong
số
những
thông
tin
không
được
tích
cực
về
tình
hình
tài
chính
-
tiền
tệ,
đầu
tư…
trong
những
ngày
qua,
như
nợ
xấu
của
hệ
thống
ngân
hàng,
căng
thẳng
thanh
khoản,
lãi
suất
vẫn
cao,
đầu
tư
FDI
giảm…
là
một
thông
tin
khá
lạ:
USD
giảm
giá
so
với
đồng
Việt
Nam.
Đây
đúng
là
chuyện
“lâu
lâu
mới
có”,
bởi
tỷ
giá
phải
tăng
(ở
nước
ta,
cách
viết
này
có
ý
nghĩa
là
đồng
Việt
Nam
mất
giá
so
với
đồng
USD)
mới
là
chuyện
đương
nhiên,
người
ta
chỉ
quan
tâm
đến
việc
nó
sẽ
tăng
bao
nhiêu
mà
thôi.
Thông
tin
cụ
thể,
ngày
4/2,
giá
USD
cả
trong
ngân
hàng
lẫn
thị
trường
tự
do
đều
giảm
mạnh,
giá
bán
USD
của
nhiều
ngân
hàng
thương
mại
đồng
loạt
rời
xa
mức
trần,
dù
Ngân
hàng
Nhà
nước
tiếp
tục
giữ
nguyên
tỷ
giá
bình
quân
liên
ngân
hàng
ở
mức
20.828
đồng.
Xu
thế
giảm
này
bắt
đầu
xuất
hiện
từ
ngay
sau
Tết
Nguyên
đán,
tuy
nhiên
nó
có
là
tín
hiệu
về
việc
đã
loại
bỏ
được
nỗi
lo
tỷ
giá
tăng
hay
chưa
mới
là
chuyện
cần
xem
xét.
Áp
lực
giảm
giá
đồng
USD
những
ngày
qua
đến
từ
nhiều
nguyên
nhân.
Thứ
nhất
là
nguồn
cung
USD
tăng
do
kiều
hối
tăng
trong
dịp
tết,
nên
nhu
cầu
chuyển
đổi
từ
USD
sang
tiền
đồng
còn
đang
lớn
hơn
phía
ngược
lại.
Thứ
hai
là
nhu
cầu
của
người
dân
đổi
ngoại
tệ
sang
tiền
đồng
để
chi
xài,
đầu
tư
hiện
cao
hơn
nhu
cầu
giữ
USD
để
phòng
rủi
ro
tỷ
giá.
Bởi
trong
khi
thanh
khoản
tiền
đồng
vẫn
căng
thẳng,
lãi
suất
gửi
tiết
kiệm
bằng
tiền
đồng
chưa
có
dấu
hiệu
giảm
trong
ngắn
hạn
thì
nhiều
người
không
muốn
nắm
giữ
USD
thay
vì
tiền
đồng.
Nguyên
nhân
thứ
ba
đến
từ
phía
các
doanh
nghiệp
nhập
khẩu,
khi
cầu
USD
phục
vụ
cho
nhập
khẩu
tiêu
dùng
giảm
mạnh
so
với
trước
tết.
Thống
kê
từ
Bộ
Công
thương
cho
biết,
tháng
1-2012
kim
ngạch
xuất
khẩu
nước
ta
giảm
11,1%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước,
giảm
tới
28,5%
so
với
tháng
12-2011;
nhập
khẩu
cũng
giảm
18,7%
so
với
cùng
kỳ
năm
ngoái
và
giảm
29,5%
so
với
tháng
12/2011.
Với
những
con
số
này,
đã
có
một
số
nhận
định
tỏ
ý
lo
ngại
khi
cho
rằng
hoạt
động
thương
mại
-
đặc
biệt
là
xuất
khẩu
-
giảm
sút
như
vậy
là
rất
đáng
lưu
tâm.
Tuy
nhiên,
cũng
cần
lưu
ý
rằng
tháng
1
năm
nay
có
kỳ
nghỉ
tết
kéo
dài
chín
ngày,
chưa
kể
đến
tâm
lý
làm
việc
“cầm
chừng”
một
số
ngày
trước
và
sau
tết
của
một
số
bộ
phận
trong
xã
hội.
Thời
gian
hoạt
động
sản
xuất
kinh
doanh
chỉ
bằng
2/3
tháng
bình
thường,
nên
mức
suy
giảm
như
vậy
không
có
gì
đáng
phải
báo
động.
Nếu
đà
suy
giảm
này
vẫn
tiếp
tục
ở
tháng
2
thì
mới
cần
một
sự
đánh
giá
nghiêm
túc
để
tìm
ra
giải
pháp
nhằm
cải
thiện
hoạt
động
xuất
khẩu.
Cũng
như
đằng
sau
con
số
khá
lạc
quan
về
việc
tỷ
giá
giảm
là
những
vấn
đề
cần
được
đặt
ra.
Phải
chăng
tỷ
giá
giảm
chứng
tỏ
giá
trị
của
đồng
nội
tệ
tăng
lên?
Hay
đó
chỉ
phản
ánh
sự
thiếu
hụt
tiền
đồng
trong
ngắn
hạn
khiến
cho
tỷ
giá
buộc
phải
giảm?
Nếu
như
giá
trị
của
đồng
nội
tệ
ổn
định
và
có
xu
hướng
tăng
cùng
với
sự
tăng
trưởng
vững
chắc
của
nền
kinh
tế,
khiến
giá
trị
đồng
Việt
Nam
tăng
tương
đối
so
với
đồng
USD
thì
còn
gì
bằng.
Nhưng
nếu
không
phải
như
thế,
thì
với
một
nước
xem
trọng
xuất
khẩu
như
nước
ta,
sự
tăng
giá
của
tiền
đồng
so
với
USD
không
hề
có
lợi
cho
hoạt
động
xuất
khẩu.
Đó
là
chưa
kể,
khi
áp
lực
thanh
khoản
tiền
đồng
không
còn,
tiền
đồng
được
đổ
ra
nhiều
trong
khi
hiệu
quả
của
việc
sản
xuất
–
kinh
doanh
không
tăng
theo
tương
ứng,
nguồn
cung
USD
không
còn
dồi
dào
cộng
với
nhu
cầu
cần
USD
cho
hoạt
động
trả
nợ,
nhập
khẩu…
ập
đến,
thì
tỷ
giá
sẽ
chịu
tác
động
kép.
Đến
lúc
ấy,
mối
nguy
mới
hiển
hiện.