Hậu
Giang
là
vùng
đất
có
nhiều
tiềm
năng
và
con
người
chịu
khó
nên
khi
thành
lập
tỉnh
đến
nay
đã
gặt
hái
nhiều
thành
tựu
đáng
kể.
Từ
xuất
phát
điểm
rất
thấp,
nhờ
biết
phát
huy
nội
lực,
từng
bước
khai
thác
lợi
thế
địa
lý
kinh
tế
cả
tỉnh
đã
vượt
qua
khó
khăn,
đưa
nền
kinh
tế
phát
triển
với
những
bước
đi
vững
chắc.
Theo
Sở
NN-PTNT
tỉnh
Hậu
Giang,
giá
trị
sản
xuất
toàn
ngành
tăng
bình
quân
giai
đoạn
2004
–
2013
là
7%.
Tuy
nhiên,
Hậu
Giang
vẫn
còn
phải
đối
diện
với
những
thách
thức
trong
chặng
đường
sắp
tới
!
Diện
tích
trồng
lúa
khoảng
80.000
ha,
sản
lượng
tăng
từ
1.076
triệu
tấn
năm
2004
lên
1.185
triệu
tấn
năm
2013,
nhưng
rõ
ràng
tổn
thất
sau
thu
hoạch
còn
ở
mức
cao;
Ngoài
thất
thoát
về
khối
lượng
từ
11
–
13
%,
còn
giảm
giá
trị
trên
thị
trường
từ
10
–
20
%.
Nông
dân
Hậu
Giang
tiếp
cận
thiết
bị
mới
của
Cty
Bùi
Văn
Ngọ
Theo
báo
cáo
của
cục
chế
biến
thương
mại
nông
lâm
thủy
sản
và
nghề
muối,
bộ
NN-PTNT,
tỷ
lệ
gặt
bằng
máy
ở
Hậu
Giang
mới
đạt
43%.
Số
lượng
máy
sấy
lúa
,
công
suất
quy
đổi:
6
tấn/
mẽ
,
có
khoảng
416
máy.
Lượng
lúa
được
sấy
chiếm
30
–
40
%.
Chủ
yếu
sấy
lúa
bằng
máy
sấy
tĩnh
vĩ
ngang.
Hậu
Giang
chưa
có
hệ
thống
sấy
công
nghiệp,
kho
tồn
trữ
lúa
cơ
giới
và
các
hệ
thống
xay
xát
chế
biến
lúa
gạo
có
công
nghệ
tiên
tiến.
Do
đó
tiềm
năng
sản
xuất
lúa
gạo
chất
lượng
cao
nhưng
sản
xuất,
chế
biến
kinh
doanh
lúa
gạo
theo
hướng
chế
biến,
bảo
quản
chất
lượng
trung
bình.
Sức
cạnh
tranh
của
hạt
gạo
Hậu
Giang
trên
thị
trường
chưa
tạo
giá
trị
tăng
thêm
trong
chuỗi
sản
xuất
tương
xứng
với
tiềm
năng,
không
chỉ
đem
lại
hiệu
quả
trực
tiếp
cho
các
hộ
nông
dân
trồng
lúa
chưa
cao
mà
còn
ảnh
hưởng
đến
giá
trị
đóng
góp
từ
khu
vực
nông
nghiệp-
Kéo
theo
những
ngành
khác
đang
tham
gia
vào
chuỗi
cung
ứng,
chuỗi
giá
trị.
Triển
khai
chương
trình
cơ
giới
hóa
trong
canh
tác
và
hiện
đại
hóa
công
nghiệp
chế
biến
là
việc
cần
thiết,
Hậu
Giang
cần
nhiều
chuyên
gia
trong
cơ
khí
nói
chung
và
cơ
khí
nông
nghiệp
nói
riêng.
Chất
lượng
nguồn
nhân
lực
là
yếu
tố
quyết
định
cho
sự
phát
triển
nông
nghiệp
ở
Hậu
Giang.
Nhưng
tại
Hậu
Giang
hiện
nay
có
bao
nhiêu
kỹ
sư
cơ
khí
và
kỹ
sư
cơ
khí
nông
nghiệp
phục
vụ
trong
ngành
nông
nghiệp?
Cả
khu
vực
tư
nhân
và
khu
vực
công?
Ai
quản
lý
nguồn
nhân
lực
quý
hiếm
này?
Nếu
không
biết
nguồn
nhân
lực
này
đang
như
thế
nào
thì
chúng
ta
chưa
hết
khó
khăn!
Hậu
Giang
là
nơi
dành
đất
cho
cây
mía,
nhưng
nếu
nhìn
vào
thực
trạng
cây
mía,
chúng
ta
thấy
gì?
Diện
tích
hiện
nay
lên
đến
12.000
ha.
Năng
suất
bình
quân
đạt
100
–
110
tấn/ha
(Thâm
canh
đạt
130
–
150
tấn
).Vấn
đề
đặt
ra
cho
cây
mía
Hậu
Giang
là
khâu
cơ
giới
hóa
trong
canh
tác,
thu
hoạch
còn
rất
nhiều
khó
khăn
và
khi
mà
khó
khăn
đó
chưa
được
khắc
phục,
việc
lấy
đường
từ
cây
mía
không
phải
dễ
có
lời!
Cây
mía
Hậu
Giang
phải
canh
tranh
với
các
nước
có
ngành
trồng
mía
đường
được
trang
bị
cơ
giới
hóa
cao,
năng
suất
mía
bình
quân
150
tấn/ha,
trữ
lượng
đường
14%,
công
nghiệp
chế
biến
tiên
tiến
với
giá
thành
rất
cạnh
tranh
so
với
ngành
chế
biến
mía
đường
của
Việt
Nam.
Về
vật
nuôi,
thủy
sản
và
các
cây
trồng
khác,
nhìn
chung
còn
ở
quy
mô
nhỏ,
trình
độ
canh
tác
chưa
được
xem
là
tiên
tiến,
chưa
có
thương
hiệu
và
sức
canh
tranh
còn
yếu.
Hoàn
thiện
hệ
thống
thủy
lợi
nội
đồng,
giao
thông
nông
thôn,
kết
hợp
với
điện
khí
hóa
nông
nghiệp,
bờ
ruộng
phải
đủ
rộng
để
cơ
giới
vào
được
tận
ruộng.
Liệu
Hậu
Giang
có
nghĩ
tới
việc
dành
đất
để
trồng
cỏ,
trữ
rơm.
Kết
hợp
trồng
cỏ,
phát
triển
chăn
nuôi
đại
gia
súc,
thủy
sản,
trồng
nấm
trên
đất
lúa
và
đất
vườn
tạp
sẽ
đa
dạng
hóa
nguồn
thu
cho
nông
dân.
Liệu
có
giải
pháp
nào
hiện
đại
hóa
hệ
thống
canh
tác,
hợp
tác
với
các
Viện
,
trường
nghiên
cứu
giống
cây
trồng,
đặc
biệt
là
giống
lúa
thích
nghi
với
khí
hậu,
thổ
nhưỡng,
nguồn
nước
trong
tỉnh
,
thích
ứng
điều
kiện
biến
đổi
khí
hậu,
cho
gạo
ngon,
chịu
phèn
mặn,
chống
sâu
bệnh,
đỗ
ngã,
tránh
tình
trạng
rơi
rụng
và
thuận
lợi
cho
khâu
thu
hoạch
bằng
máy.
Những
giống
gạo
ngon
cơm
sau
khi
Việt
Nam
tham
gia
Hiệp
định
thương
mại
có
ảnh
hưởng
lớn
như
Hiệp
Định
Đối
Tác
Kinh
Tế
Chiến
lược
xuyên
Thái
Bình
Dương
(
Trans-Pacific
Strategic
Economic
Partnership
Agreement
–
Viết
Tắt
TPP),
cơ
hội
và
thách
thức
buộc
chúng
ta
phải
suy
nghĩ
và
hành
động
để
nâng
cao
sức
cạnh
tranh
quốc
gia
từ
lĩnh
vực
nông
nghiệp
.
Đó
là
lĩnh
vực
mà
Việt
Nam
có
nguồn
lực
lớn.
Vấn
đề
là
làm
sao
liên
kết
lực
lượng
để
tạo
sức
mạnh?!.
Hiệu
quả
“bậc
thang
giải
pháp”
cần
được
nghiên
cứu
vì
nó
sẽ
góp
phần:
- Giảm tổn thất sau thu hoạch hiện nay ở mức 12- 13% về khối lượng xuống 6% vào năm 2020.
- Tăng giá trị hạt gạo lên từ 10-15%
- Tăng giá trị trong chuỗi sản xuất lúa gạo do sử dụng có hiệu quả các phó sản từ sản xuất lúa gạo.
- Tạo ra năng lực cạnh tranh và giá trị tăng thêm mới mức 20% trên tổng giá trị hạt lúa tương đương với 200.000 đến 250.000 tấn lúa trị giá đến 1.000 tỷ đồng.
Từ
nguồn
lực
này
Hậu
Giang
chủ
động
đầu
tư
phát
triển
tiềm
năng
nâng
cao
năng
lực
cạnh
tranh
của
hạt
gạo
và
hàng
nông
sản
trong
tỉnh.
Định
hướng
phát
triển
Hậu
Giang
đến
năm
2020
có
nêu:“Dự
án
khu
nông
nghiệp
ứng
dụng
công
nghệ
cao
tại
huyện
Long
Mỹ
có
diện
tích
5.200
ha
với
tổng
vốn
đầu
tư
là
4.000
tỷ
đồng”.
Nguồn
vốn
ở
đâu
và
nguồn
nhân
lực
nào
để
thực
hiện
đề
án
này?Và
hàng
nông
sản
này
nhắm
vào
thị
trường
nào-
và
năng
lực
cạnh
tranh
ra
sao?
Đang
là
câu
hỏi
nhiều
trăn
trở!
Nếu
hiện
thực
hóa
điều
này
sẽ
tạo
ra
động
lực
mới
để
đưa
nông
nghiệp
Hậu
Giang
chuyển
biến
mới
về
chất.
Muốn
vậy,
Hậu
Giang
phải
tập
trung
vào
các
mục
tiêu
chủ
yếu
sau
đây:
- Tập trung đầu tư vào cây lúa, sản xuất lúa chất lượng cao theo chuẩn VIETGAP , Global GAP.
- Giải quyết triệt để thất thoát sau thu hoạch lúa về khối lượng và giá trị.
- Tăng năng lực cơ giới hóa nông nghiệp trong sản xuất lúa - thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp.
- Sấy tồn trữ xay xát lúa gạo bằng công nghệ tiên tiến.
- Chế biến các phụ phẩm trong sản xuất lúa gạo là rơm rạ, trấu, tấm cám và các sản phẩm sau gạo.
Đầu
tư
theo
hướng
này
rất
khả
thi
do
phát
huy
được
nguồn
nội
lực,
vốn
đầu
tư
và
đem
lại
hiệu
quả
ngay
cho
nền
kinh
tế
.
Khi
Hậu
Giang
huy
động
được
lợi
thế
so
sánh
về
tiềm
năng,
địa
lý
kinh
tế
và
có
tác
dụng
dây
chuyền,
không
chỉ
xây
dựng
cánh
đồng
hiện
đại,
sản
xuất
lúa
chất
lượng
cao
mà
còn
giải
quyết
được
bài
toán
công
nghệ
chế
biến
lúa
gạo
tiến
tiến.
Xây
dựng
10
cụm
xay
xát
tiên
tiến,
liên
kết
với
vùng
nguyên
liệu
diện
tích
canh
tác
khoảng
6.000-7.000
ha.
Ổn
định
sản
xuất
chế
biến
lúa
chất
lượng
cao
từ
150.000
đến
200.000
tấn/
cụm,
vốn
đầu
tư
khoảng
200
tỷ
đồng/cụm
sẽ
tạo
ra
giá
trị
tăng
thêm
khoảng
1.000
tỷ
đồng/
năm.
Đó
là
nguồn
nội
lực
để
phát
triển
nông
nghiệp
Hậu
Giang.
Do
điều
kiện
thuận
lợi,
Hậu
Giang
nên
xác
định
là
tỉnh
trồng
lúa
chất
lượng
cao
và
hệ
thống
chế
biến
lúa
gạo
tiên
tiến.
Kênh
Xà
No
phải
phát
huy
tiềm
năng
và
truyền
thống
vốn
có
của
nó.
Thành công trong mũi đốt phá này, sẽ tạo ra các bước tiếp theo khơi dậy nguồn lực kinh tế Hậu Giang.
KS: Nguyễn Thể Hà
Tư vấn Công Ty Cơ Khí CNN Bùi Văn Ngọ
BOX 1:
Những giải pháp cho cây lúa:
-Cơ giới hóa trong toàn bộ các khâu
-Xây dựng cánh đồng hiện đại theo chuẩn Vietgap – Global Gap
-Thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp
Tồn trữ chế biến
Sấy lúa ngay sau thu hoạch bằng phương pháp sấy công nghiệp, công nghệ sấy gián tiếp đảm bảo giữ được tính đặt trưng của từng loại gạo theo từng giống lúa. Sấy lúa theo công nghệ sấy thóc giống.
Tồn trữ trong các kho bảo quản được cơ giới hoá.
- Xay xát lúa gạo trong các nhà máy tiên tiến đạt tiêu chuẩn vệ sinh công nghiệp, đạt chuẩn HACCP ở các khâu đảm bảo chất luợng hạt gạo.
- Tăng cuờng chế biến phụ phẩm và các sản phẩm sau gạo.Làm thị truờng là khâu quyết định bên cạnh việc tạo giá trị gia tăng trong toàn chuỗi sản xuất chế biến tạo ra giá trị gia tăng nông sản của Hậu Giang.
Tận dụng rơm rạ không phải là suy nghĩ mới, nhưng sẽ tạo việc làm mới nhằm khai thác hiệu quả rơm rạ sau thu hoạch: Dễ hình dung nhất là làm thức ăn chăn nuôi đại gia súc, trồng nấm…Đưa giá trị rơm rạ từng bước ngang với giá trị hạt lúa.
BOX 2:
Những giải pháp cho cây mía và vật nuôi khác
Cần phải chuyển đổi hệ thống canh tác, công nghệ chế biến và sản phẩm mía đường tránh phải cạnh tranh với các nước có ngành trồng mía được cơ giới hoá toàn bộ và công nghệ chế biến tiên tiến.
Cần nghiên cứu sản xuất theo hướng hữu cơ và chế biến thủ công hiện đại theo hướng sản xuất đường sạch không hoá chất.
BOX 3:
Những giải pháp đối với cây ăn trái, chăn nuôi và thủy sản
- Cần phải tổ chức lại sản xuất, phát huy tính đặc sắc của từng mặt hàng
- Thương mại hoá sản phẩm bằng các giải pháp chủ động tích cực vào thị trường đô thị và thị trường xuất khẩu hàng nông sản chất lượng cao.
- Xây dựng tiêu chuẩn hàng hoá.
- Xây dựng thương hiệu nông sản, thực hiện tốt các giải pháp về thị trường liên kết lợi ích là những yếu tố cốt lõi của đổi mới trong nông nghiệp.