Tiền
lương
phải
trở
thành
thu
nhập
chính,
là
động
lực
đối
với
người
lao
động
và
là
điều
kiện
để
DN
được
bình
đẳng,
tạo
ra
sự
cạnh
tranh
lành
mạnh
giữa
các
loại
hình
doanh
nghiệp.
Đó
chính
là
hướng
cải
cách
chính
sách
tiền
lương
trong
khu
vực
sản
xuất
kinh
doanh
giai
đoạn
2012
-
2020.
Còn
hiện
tại,
trong
khu
vực
DN
nhà
nước
(DNNN)
đang
xuất
hiện
sự
chênh
lệch
tiền
lương
lớn
giữa
DN
có
lợi
thế
và
không
có
lợi
thế,
khiến
quan
hệ
tiền
lương
trong
khu
vực
này
càng
trở
nên
méo
mó.
Nhữngdoanh
nghiệp“hạng
đặc
biệt”
Hiện
nay,
cơ
chế
tiền
lương
trong
DNNN
được
xác
định
theo
tổng
quỹ
lương
chung
sau
đó
chi
trả
bình
quân
theo
từng
người,
tính
dựa
trên
các
thông
số
như
lao
động,
hệ
số
lương,
hệ
số
điều
chỉnh
tăng
thêm,
đơn
giá
tiền
lương…
Tuy
nhiên,
các
tiêu
chí
quản
lý
tiền
lương
gắn
với
nộp
ngân
sách,
lợi
nhuận
và
năng
suất
lao
động
chưa
phản
ánh
hết
hiệu
quả
kinh
doanh
và
sử
dụng
vốn;
chưa
phân
loại
được
hiệu
quả
thực
sự
trong
mối
tương
quan
giữa
các
DN,
nhất
là
DN
cùng
ngành
nghề,
dẫn
đến
DN
trong
cùng
ngành
nghề
hạch
toán
chi
phí
tiền
lương
rất
khác
nhau.
Mặt
khác,
các
chuyên
gia
về
tiền
lương
còn
cho
rằng
các
tiêu
chí
quản
lý
chưa
phân
biệt
giữa
DN
có
lợi
thế
(như
ngân
hàng,
dầu
khí,
hàng
không...)
và
DN
không
có
lợi
thế
(như
dệt
may,
giày
da,
lâm
nghiệp,
cà
phê...)
đang
diễn
ra
trong
thực
tế.
Điều
này
dẫn
đến
có
2
xu
hướng:
DN
lợi
thế
thì
áp
dụng
hệ
số
điều
chỉnh
tối
đa,
hoặc
xây
dựng
chỉ
tiêu
kế
hoạch
kinh
doanh
thấp
hơn
so
với
khả
nằng
thực
tế,
định
mức
lao
động
cao,
nâng
hệ
số
cấp
bậc
công
việc,
đẩy
tiền
lương
cao,
bình
quân
9
-
10
triệu
đồng/tháng,
gấp
2
-
3
lần
bình
quân
chung.
Ngược
lại,
DN
khó
khăn
thì
xuất
hiện
xu
hướng
ép
tiền
lương,
thậm
chí
có
mức
lương
thực
tế
thấp
hơn
mức
lương
theo
thang,
bảng
lương.
Thực
tế
này
đã
tạo
chênh
lệch
tiền
lương
giữa
các
ngành
và
giữa
các
DN
có
xu
hướng
ngày
càng
tăng.
Kết
quả
tổng
hợp
tình
hình
của
37
công
ty
mẹ
của
Tập
đoàn
kinh
tế,
Tổng
công
ty
“hạng
đặc
biệt”
cho
thấy,
năm
2010
tiền
lương
của
doanh
nghiệp
có
lợi
thế
đạt
8,14
triệu
đồng/tháng,
cao
gấp
3,35
lần
so
với
nhóm
doanh
nghiệp
không
có
lợi
thế.
Tiền
lương
của
nhóm
doanh
nghiệp
ngân
hàng,
tài
chính
đạt
10,5
triệu
đồng/tháng,
cao
gấp
4,32
lần
nhóm
doanh
nghiệp
không
có
lợi
thế.
“Trên”
bảo
“dưới”
không
nghe
Đánh
giá
của
Bộ
LĐ-TB-XH
đối
với
cơ
chế
trả
lương
trong
DNNN
đã
nêu
ra
bất
ổn:
Chưa
phân
định
rõ
tiền
lương
và
trách
nhiệm
của
đại
diện
chủ
sở
hữu
(Hội
đồng
quản
trị,
Hội
đồng
thành
viên)
với
viên
chức
quản
lý
điệu
hành
(Ban
giám
đốc),
trong
đó
Hội
đồng
quản
trị,
Hội
đồng
thành
viên
là
người
đại
diện
cho
chủ
sở
hữu
nhưng
vẫn
hưởng
lương
chung
với
Ban
giám
đốc
và
DN
chi
trả,
làm
giảm
tính
khách
quan,
độc
lập
và
hiệu
quả
trong
chỉ
đạo,
điều
hành
DN.
Theo
ông
Lê
Anh
Cường,
Giám
đốc
công
ty
Tư
vấn
Macconsult,
cơ
chế
tiền
lương
của
đội
ngũ
quản
lý
trong
DNNN
chưa
thực
sự
gắn
với
hiệu
quả
kinh
doanh,
kết
quả
điều
hành
doanh
nghiệp.
Trong
khi
đó,
công
tác
kiểm
tra,
giám
sát
của
chủ
sở
hữu
DN
chưa
thường
xuyên,
nhất
là
khâu
hậu
kiểm.
“Nếu
có
đánh
giá,
còn
hết
sức
đơn
giản,
mang
tính
hình
thức,
dĩ
hòa
vi
quý”,
ông
Cường
nhận
định.
Trên
thực
tế,
quỹ
tiền
lương
trong
DNNN
được
xác
định
chung,
do
chủ
sở
hữu
phê
duyệt
và
giao
cho
doanh
nghiệp
chi
trả
dẫn
đến
chủ
sở
hữu
không
quản
lý
được
tiền
lương
của
từng
người
gắn
với
mức
độ
hoàn
thành
nhiệm
vụ.
Cụ
thể
từ
năm
2008
trở
lại
đây
DNNN
có
xu
hướng
đẩy
tiền
lương
của
viên
chức
quản
lý
lên
cao
hoặc
nhập
chung
vào
quỹ
lương
của
người
lao
động
để
phân
phối
hoặc
lấy
thêm
một
phần
từ
quỹ
lương
theo
đơn
giá
tiền
lương,
dẫn
đến
ở
một
số
DN
tiền
lương
của
viên
chức
quản
lý
vượt
quá
quỹ
tiền
lương
được
chủ
sở
hữu
phê
duyệt,
gây
bức
xúc
trong
dư
luận.
Đặc
biệt,
năm
2010,
một
số
DN
đã
trả
lương
cho
chủ
tịch
chuyên
trách,
tổng
giám
đốc
70
-
80
triệu
đồng/tháng
trong
khi
khung
tối
đa
của
nhà
nước
chỉ
khoảng
50
triệu
đồng/tháng.