Hai
hàng
rào
di
chuyển
quan
trọng
trong
ngành
là
mức
độ
đa
dạng
của
dòng
sản
phẩm
và
chất
lượng
của
sản
phẩm.
Cơ
khí
chế
tạo
máy
phục
vụ
sản
xuất
nông
nghiệp
là
một
trong
những
phân
ngành
cơ
khí
có
vai
trò
quan
trọng
trong
việc
cung
ứng
tư
liệu
sản
xuất
cho
ngành
nông
nghiệp.
Với
diện
tích
đất
nông
nghiệp
lớn
và
phần
đông
dân
cư
tham
gia
vào
sản
xuất
nông
nghiệp,
cùng
với
xu
hướng
cơ
giới
hoá,
đưa
máy
móc
ứng
dụng
vào
sản
xuất
nông
nghiệp
thay
thế
dần
lao
động
thủ
công,
tăng
năng
suất
lao
động
nông
nghiệp,
giảm
tổn
thất
sau
thu
hoạch,
ngành
cơ
khí
chế
tạo
máy
nông
nghiệp
có
nhiều
tiềm
năng
lớn
để
phát
triển.
Tuy
nhiên,
theo
nhiều
nhà
phân
tích,
ngành
cơ
khí
chế
tạo
máy
nông
nghiệp
của
Việt
Nam
có
sức
cạnh
tranh
thấp
và
chỉ
chiếm
được
một
thị
phần
khiêm
tốn.
Chuỗi
giá
trị
của
ngành
Ngành
nông
nghiệp
có
nhiều
loại
cây
trồng
khác
nhau
và
mỗi
loại
cây
sẽ
đòi
hỏi
những
loại
máy
móc
riêng.
Tuy
nhiên,
chuỗi
giá
trị
chung
của
ngành
gồm
các
khâu
cơ
bản:
(1)
Canh
tác,
(2)
thu
hoạch,
(3)
vận
chuyển,
(4)
Chế
biến,
(5)
Bảo
quản.
Các
công
đoạn
này
đều
có
tiềm
năng
cơ
giới
hoá
với
các
loại
máy
móc
khác
nhau.
Lấy
ví
dụ
về
loại
cây
trồng
phổ
biến
của
Việt
Nam
là
cây
lúa,
những
công
đoạn
quan
trọng
trong
chuỗi
giá
trị
trong
ngành
có
thể
ứng
dụng
máy
móc
như
sau:
Sơ
đồ:
Các
loại
máy
móc
và
các
công
ty
cơ
khí
tiêu
biểu
Những
đặc
điểm
về
khách
hàng
của
ngành-
Sản
phẩm
có
chi
phí
đầu
tư
lớn
đối
với
khách
hàng
và
sản
phẩm
có
chi
phí
chuyển
đổi
thấp:
Điều
này
khiến
cho
khách
hàng
của
ngành
khá
nhạy
cảm
với
giá
cả
và
cho
phép
khách
hàng
có
sức
mạnh
mặc
cả
tốt.
-
Điều
kiện
đất
nông
nghiệp
và
thời
tiết
của
từng
vùng
miền
của
Việt
Nam
khác
biệt
nhau:
Điều
này
đòi
hỏi
các
sản
phẩm
phải
được
điều
chỉnh
thiết
kế
và
kỹ
thuật
cho
phù
hợp
với
đặc
thù
riêng
của
từng
vùng
(ví
dụ,
máy
cày
trên
nền
đất
cằn
sẽ
đòi
hỏi
yêu
cầu
khác
với
khu
vực
sình
lầy,
diện
tích
thửa
ruộng
lớn
sẽ
dễ
dàng
ứng
dụng
máy
gặt
đập
liên
hợp
trong
khi
thửa
ruộng
nhỏ
lại
chỉ
có
thể
áp
dụng
máy
gặt
lúa
cầm
tay).
Với
công
đoạn
chế
biến
sau
thu
hoạch,
quy
mô
của
các
cơ
sở
chế
biến
là
khác
nhau
nên
yêu
cầu
về
công
suất
của
các
loại
máy
chế
biến
cũng
khác
nhau.
Hàng
rào
gia
nhập
ngành
quan
trọng
nhất:
Kinh
nghiệm
Nói
về
hàng
rào
vốn,
ngành
cơ
khí
nông
nghiệp
không
đòi
hỏi
lượng
vốn
quá
lớn,
thậm
chí
một
số
dòng
sản
phẩm
chỉ
cần
lượng
vốn
rất
nhỏ
có
thể
được
sản
xuât
một
cơ
sở
tư
nhân
với
số
vốn
khoảng
chục
tỷ
đồng.
Chi
phí
chuyển
đổi
cũng
không
phải
là
rào
cản
quan
trọng
trong
ngành
khi
các
sản
phẩm
tương
đối
dễ
sử
dụng.
Có
lẽ
hàng
rào
gia
nhập
đáng
kể
là
hàng
rào
kinh
nghiệm.
Hàng
rào
này
đặc
biệt
mạnh
và
khó
sao
chép
đối
với
một
số
dòng
sản
phẩm
có
kỹ
thuật
phức
tạp
như
máy
kéo
hay
máy
gặt
đập
liên
hợp.
Điều
này
hàm
ý
rằng
những
doanh
nghiệp
gia
nhập
ngành
sớm
và
tích
luỹ
được
kinh
nghiệm
sẽ
có
lợi
thế
cạnh
tranh
đáng
kể
với
những
doanh
nghiệp
gia
nhập
ngành
muộn
hơn.
Các
nhóm
chiến
lược
trong
ngành
Hai
hàng
rào
di
chuyển
quan
trọng
trong
ngành
là
mức
độ
đa
dạng
của
dòng
sản
phẩm
và
chất
lượng
của
sản
phẩm.
Dựa
vào
hai
nhân
tố
này,
ta
có
thể
phác
thảo
sơ
đồ
các
nhóm
chiến
lược
trong
ngành
như
sau:
Sơ
đồ
các
nhóm
chiếm
lược
trong
ngành
chế
tạo
máy
nông
nghiệp
Diện
tích
hình
tròn
tượng
trưng
cho
thị
phần
của
nhóm-
Chiến
lược
cạnh
tranh:
Các
doanh
nghiệp
trong
ngành
của
Việt
Nam
đều
cố
gắng
theo
đuổi
cùng
một
chiến
lược
đó
là
cạnh
tranh
bằng
dẫn
đầu
về
chi
phí
thấp,
tương
tự
như
các
doanh
nghiệp
Trung
Quốc,
trong
khi
đó,
các
công
ty
của
Nhật
Bản
như
Kubota
lại
theo
đuổi
chiến
lược
cạnh
tranh
bằng
khác
biệt
hoá.
Tuy
nhiên,
do
nhiều
nguyên
nhân,
chiến
lược
cạnh
tranh
của
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
chưa
đạt
được
nhiều
thành
công
đáng
kể.
-
Thị
phần
nhỏ
và
tăng
chậm
cho
thấy
năng
lực
cạnh
tranh
yếu
của
sản
phẩm
trong
nước:
Theo
số
liệu
được
công
bố
gần
đây,
máy
nông
nghiệp
Việt
Nam
mới
chỉ
chiếm
khoảng
20%
thị
phần,
60%
là
máy
nhập
khẩu
từ
Trung
Quốc,
còn
lại
là
Nhật
Bản
và
Hàn
Quốc.
Kết
quả
khảo
sát
thị
trường
cho
thấy,
so
sánh
cùng
chủng
loại
thì
máy
sản
xuất
trong
nước
đắt
hơn
máy
của
Trung
Quốc
từ
15-20%.
Việc
thị
trường
chủ
yếu
bị
thống
trị
bởi
các
sản
phẩm
ngoại
nhập,
thị
phần
của
các
doanh
nghiệp
trong
nước
khiêm
tốn
và
chậm
được
cải
thiện
cho
thấy
năng
lực
cạnh
tranh
yếu
của
sản
phẩm
trong
nước.
-
Doanh
nghiệp
dẫn
đầu
ngành
thương
hiệu
Việt:
Đó
là
Tổng
Công
ty
Máy
động
lực
và
Máy
nông
nghiệp
VEAM:
Với
dòng
sản
phẩm
rộng,
bao
trùm
tất
cả
các
khâu
trong
chuỗi
giá
trị
của
ngành
nông
nghiệp
(chủ
yếu
là
phục
vụ
cho
cây
lúa),
tích
hợp
dọc,
và
hoạt
động
lâu
năm,
VEAM
được
xem
là
có
lợi
thế
cạnh
tranh
đáng
kể
trên
thị
trường.
Xét
về
năng
lực
phát
triển
công
nghệ,
đây
cũng
là
công
ty
trong
nước
có
năng
lực
phát
triển
công
nghệ
tốt
nhất
khi
sở
hữu
những
cơ
sở
nghiên
cứu
khoa
học
uy
tín
và
tập
trung
được
đội
ngũ
nhân
sự
hàng
đầu
về
cơ
khí
nông
nghiệp.
Những
doanh
nghiệp
thành
viên
mạnh
của
Công
ty
như:
Cơ
khí
An
Giang
(máy
gặt,
máy
xát),
SVEAM
(máy
xát,
máy
kéo,
máy
cày),
Cơ
khí
Cổ
Loa
(máy
gặt
đập
liên
hợp,
máy
kéo),
Công
ty
Máy
kéo
và
Máy
nông
nghiệp
(máy
kéo)…
-
Các
công
ty
trong
ngành
nỗ
lực
đa
dạng
hoá
sản
phẩm:
Đây
là
bước
đi
đúng
để
xâm
nhập
vào
nhóm
chiến
lược
có
độ
rộng
sản
phẩm
đa
dạng
và
chất
lượng
trung
bình,
đem
lại
năng
lực
cạnh
tranh
tốt
hơn.
Trong
điều
kiện
các
doanh
nghiệp
chỉ
chiếm
được
một
thị
phần
khiêm
tốn
trong
một
dòng
sản
phẩm
thì
việc
các
doanh
nghiệp
có
nhiều
dòng
sản
phẩm
giúp
cho
doanh
thu
cộng
gộp
đủ
lớn
để
cho
tỷ
suất
lợi
nhuận
khả
quan.
Thuộc
nhóm
này
có
thể
kể
đến
Công
ty
Hữu
Toàn
và
Công
ty
Hoà
Bình.
Những
công
ty
này
thâm
nhập
ngành
từ
những
phân
khúc
có
nhu
cầu
cao
và
dễ
chế
tạo
(máy
bơm,
máy
cắt
cỏ,
máy
phun
thuốc),
sau
đó,
tích
tụ
vốn,
tạo
nguồn
lực
để
nghiên
cứu
và
tiến
vào
những
dòng
sản
phẩm
khó
hơn,
tiến
tới
thiết
lập
một
dòng
sản
phẩm
rộng
ở
nhiều
khâu
của
sản
xuất
nông
nghiệp.
-
Năng
lực
phát
triển
công
nghệ
trong
đó
có
hoạt
động
nghiên
cứu
và
phát
triển
đóng
vai
trò
quyết
định
với
năng
lực
cạnh
tranh:
Năng
lực
thiết
kế
và
cải
tiến
thường
xuyên
sản
phẩm,
nhằm
nâng
cao
chất
lượng
và
hạ
giá
thành,
phù
hợp
với
điều
kiện
sử
dụng
thực
tế
sẽ
đóng
vai
trò
quan
trọng
trong
việc
giúp
doanh
nghiệp
đáp
ứng
nhu
cầu
người
mua,
giúp
người
mua
giảm
chi
phí
hoặc
nâng
cao
năng
suất
lao
động.
Tuy
nhiên,
điều
này
phụ
thuộc
rất
lớn
vào
tính
liên
kết
của
doanh
nghiệp
với
khách
hàng
cũng
như
năng
lực
phát
triển
sản
phẩm,
trình
độ
nhân
sự
kỹ
thuật
và
mức
độ
đầu
tư
cho
phát
triển
công
nghệ.
Tiềm
lực
tài
chính
của
các
công
ty
trong
ngành
Bảng:
Tình
hình
tài
chính
của
các
công
ty
trong
ngành
Đơn
vị
tính:
tỷ
đồng
STT |
Công
ty |
Tổng
tài
sản |
Vốn
chủ
sở
hữu |
Doanh
thu
thuần |
Lợi
nhuận
sau
thuế |
1 |
CTCP
Cơ
khí
Long
An |
207 |
94 |
NA |
53 |
2 |
CTCP
Cơ
khí
An
Giang |
120 |
44 |
142 |
9 |
3 |
CTCP
Cơ
khí
Lương
thực |
186 |
54 |
687 |
15 |
4 |
CTCP
Chế
tạo
bơm
Hải
Dương |
125 |
53 |
151 |
8 |
5 |
CTCP
Thiết
bị
Phụ
tùng
Cơ
điện |
87 |
45 |
209 |
7 |
Xét
trên
quy
mô
tổng
tài
sản,
những
công
ty
trong
mẫu
có
quy
mô
vừa,
phản
ánh
thực
trạng
cơ
khí
nông
nghiệp
có
quy
môn
còn
khiêm
tốn.
Xét
trong
mẫu,
Công
ty
cơ
khí
Long
An
là
doanh
nghiệp
lớn
nhất
và
hiệu
quả
kinh
doanh
tốt
nhất
trong
mẫu
và
đây
cũng
là
một
doanh
nghiệp
mạnh
của
ngành
cơ
khí
nông
nghiệp.
-
Nhiều
công
ty
trong
ngành
có
tỷ
suất
lợi
nhuận
tốt:
Khác
với
suy
nghĩ
của
nhiều
người,
thực
ra
đây
là
ngành
có
tỷ
suất
lợi
nhuận
khá
tốt
và
nhiều
công
ty
trong
ngành
kinh
doanh
hiệu
quả,
ngay
cả
trong
bối
cảnh
kinh
tế
khó
khăn
như
năm
2011.
Do
đó,
nhiều
người
cho
rằng
do
sản
xuất
máy
móc
nông
nghiệp
có
tỷ
suất
lợi
nhuận
thấp
khiến
các
công
ty
không
mặn
mà
gắn
bó
với
ngành
là
chưa
thoả
đáng.
Chính
vì
tiềm
năng
to
lớn
của
ngành
nên
ngành
đã
thu
hút
được
nhiều
doanh
nghiệp
thuộc
lĩnh
vực
tư
nhân
tham
gia
như
Hữu
Toàn,
Hoà
Bình.
Bảng:
Tỷ
suất
lợi
nhuận
vốn
chủ
sở
hữu
của
các
công
ty
trong
ngành
STT |
Tên
Công
ty |
Năm
2010 |
Năm
2011 |
1 |
CTCP
Cơ
khí
Long
An |
62,8% |
56,6% |
2 |
CTCP
Cơ
khí
An
Giang |
37,2% |
20,5% |
3 |
CTCP
Cơ
khí
Lương
thực |
21,3% |
27,8% |
4 |
CTCP
Chế
tạo
bơm
Hải
Dương |
25,8% |
15,1% |
5 |
CTCP
Thiết
bị
Phụ
tùng
Cơ
điện |
9,8% |
15,6% |
-
Đầu
tư
tài
sản
cố
định
mới
và
cho
phát
triển
công
nghệ
khá
hạn
chế:
Hoạt
động
đầu
tư
dây
chuyền
sản
xuất,
máy
móc
thiết
bị
của
nhiều
doanh
nghiệp
trong
ngành
khá
hạn
chế,
chủ
yếu
là
đầu
tư
thay
thế.
Điều
này
không
phải
xuất
phát
từ
thiếu
vốn
mà
từ
việc
các
công
ty
nhận
thấy
rủi
ro
đầu
tư
khi
lo
ngại
sản
phẩm
sản
xuất
ra
không
thể
cạnh
tranh
được
với
hàng
nhập
ngoại,
đặc
biệt
là
từ
Trung
Quốc.
Bảng:
Đầu
tư
mới
vào
tài
sản
cố
định
của
các
công
ty
trong
ngành
Đơn
vị
tính:
tỷ
đồng
STT |
Tên
Công
ty |
Năm
2010 |
Năm
2011 |
Tỷ
lệ
%
đầu
tư
2011
trên
lợi
nhuận
sau
thuế
2011 |
1 |
CTCP
Cơ
khí
Long
An |
6,6 |
1,8 |
3% |
2 |
CTCP
Cơ
khí
An
Giang |
10 |
4 |
44% |
3 |
CTCP
Cơ
khí
Lương
thực |
10 |
13 |
87% |
4 |
CTCP
Chế
tạo
bơm
Hải
Dương |
3,5 |
16,7 |
209% |
5 |
CTCP
Thiết
bị
Phụ
tùng
Cơ
điện |
0,5 |
3 |
43% |
|
Tổng
cộng |
30,6 |
38,5 |
42% |
Như
chúng
ta
thấy,
quy
mô
đầu
tư
tài
sản
cố
định
của
các
công
ty
trong
ngành
khá
khiêm
tốn,
chủ
yếu
dừng
lại
ở
đầu
tư
thay
thế,
ít
có
đầu
tư
mở
rộng
sản
xuất.
Riêng
năm
2011,
5
công
ty
trong
mẫu
chỉ
đầu
tư
mới
38,5
tỷ
đồng,
bằng
42%
lợi
nhuận
sau
thuế
của
năm
2011,
tức
là
sẽ
không
hề
phải
đi
vay
để
tài
trợ
cho
khoản
đầu
tư
này.
Như
vậy,
các
công
ty
trong
ngành
vẫn
chưa
dành
những
nguồn
lực
thích
đáng
cho
hoạt
động
đầu
tư
phát
triển.
Những
nhân
tố
khiến
sản
phẩm
cơ
khí
trong
nước
chưa
cạnh
tranh
được
với
các
sản
phẩm
nhập
khẩu
-
Thiếu
công
nghiệp
phụ
trợ
hiệu
quả,
phần
lớn
linh
kiện
phải
nhập
khẩu
Hiện
nay
nhiều
đánh
giá
cho
rằng
Việt
Nam
thiếu
công
nghiệp
phụ
trợ
hỗ
trợ
hiệu
quả
cho
ngành,
các
linh
kiện
đều
phải
nhập
khẩu,
không
sẵn
có
dẫn
đến
tỷ
lệ
nội
địa
hoá
còn
khiêm
tốn.
Điều
này
khiến
cho
giá
trị
gia
tăng
trong
ngành
là
thấp
và
giá
thành
sản
phẩm
cao,
nhiều
sản
phẩm
mới
chủ
yếu
dừng
lại
ở
dạng
lắp
ráp.
-
Hạn
chế
ở
năng
lực
công
nghệ
và
nguồn
nhân
lực
có
kỹ
thuật
cao:
Trừ
VEAM
và
một
số
doanh
nghiệp
mạnh
thuộc
sở
hữu
nhà
nước,
đa
số
các
công
ty
trong
ngành
có
năng
lực
công
nghệ
còn
hạn
chế.
Bên
cạnh
đó,
ngành
cũng
thiếu
hụt
khá
lớn
nguồn
nhân
lực
có
kỹ
thuật
cao.
Hiện
có
khá
ít
các
trường
đại
học
trong
nước
đào
tạo
chuyên
ngành
cơ
khí
và
chuẩn
đầu
ra
chưa
đảm
bảo.
-
Diện
tích
đất
canh
tác
còn
manh
mún,
hạn
chế
trong
việc
ứng
dụng
cơ
giới
hoá
vào
sản
xuất,
điều
này
khiến
cho
cầu
về
máy
móc
nông
nghiệp
chưa
thực
sự
tăng
trưởng
mạnh
và
tạo
ra
một
thị
phần
hấp
dẫn.
-
Những
chính
sách
hỗ
trợ
của
Nhà
nước
cho
ngành
chưa
đủ
mạnh
và
còn
khó
tiếp
cận:
Nhà
nước
đã
có
chính
sách
ưu
đãi
hỗ
trợ
nông
dân
vay
vốn
mua
máy
móc
trong
nước
để
phục
vụ
sản
xuất.
Đây
là
một
hỗ
trợ
đáng
kể
nhằm
tạo
cầu
cho
ngành,
tuy
nhiên,
do
năng
lực
cơ
khí
trong
nước
hạn
chế
nên
cầu
tiềm
năng
này
không
chuyển
hoá
thành
hiện
thực
hơn
nữa
cơ
chế
triển
khai
cũng
gặp
nhiều
bất
cập.