Tình
trạng
đầu
tư
ngoài
ngành
của
các
DN
có
vốn
nhà
nước
sẽ
bị
hạn
chế
hơn,
theo
dự
thảo
nghị
định
đầu
tư
vốn
nhà
nước
vào
DN
và
quản
lý
tài
chính
đối
với
DN
do
Nhà
nước
làm
chủ
sở
hữu.
Tuy
nhiên,
dự
thảo
quy
định
mới
này
đang
“vấp”
phải
ý
kiến
phản
đối
của
một
số
doanh
nghiệp
lớn,
với
lập
luận
là
một
số
khoản
đầu
tư
là
có
lãi
lớn,
hoặc
đầu
tư
không
vì
mục
đích
lợi
nhuận
mà
để
phục
vụ
cơ
chế.
Dự
thảo
quy
định,
doanh
nghiệp
chỉ
được
đầu
tư,
góp
vốn
vào
ngân
hàng,
công
ty
bảo
hiểm,
công
ty
chứng
khoán,
mỗi
lĩnh
vực
một
doanh
nghiệp.
Mức
vốn
đầu
tư
vào
từng
lĩnh
vực
này
không
quá
10%
vốn
điều
lệ
của
tổ
chức
nhận
góp
vốn,
nhưng
tổng
mức
vốn
đầu
tư
vào
các
lĩnh
vực
này
không
vượt
quá
10%
vốn
chủ
sở
hữu
của
doanh
nghiệp.
Nếu
trong
cùng
tập
đoàn,
tổng
công
ty,
công
ty
mẹ
có
các
công
ty
con
cùng
đầu
tư
vào
các
lĩnh
vực
nêu
trên
thì
tổng
mức
vốn
góp
của
công
ty
mẹ
và
các
công
ty
con
trong
tập
đoàn,
tổng
công
ty,
công
ty
mẹ
không
vượt
quá
15%
vốn
điều
lệ
của
tổ
chức
nhận
góp
vốn.
Trường
hợp
đặc
biệt
có
nhu
cầu
đầu
tư
vượt
quá
quy
định
này,
doanh
nghiệp
phải
trình
Thủ
tướng
Chính
phủ
xem
xét,
quyết
định.
Theo
Nghị
định
09,
công
ty
nhà
nước
được
phép
đầu
tư
trái
ngành
tối
đa
30%
tổng
nguồn
vốn
đầu
tư.
Riêng
đầu
tư
góp
vốn
vào
các
lĩnh
vực
ngân
hàng,
bảo
hiểm,
chứng
khoán,
mức
vốn
đầu
tư
công
ty
nhà
nước
không
vượt
quá
20%
vốn
điều
lệ
của
tổ
chức
nhận
góp
vốn.
Mức
vốn
góp
của
công
ty
mẹ,
công
ty
con
trong
tổng
công
ty,
tập
đoàn
không
vượt
quá
30%
vốn
điều
lệ
của
tổ
chức
nhận
góp
vốn.
Cục
Tài
chính
(Bộ
Tài
chính),
đơn
vị
soạn
thảo
nghị
định
này
cho
biết,
tỷ
lệ
đầu
tư
vào
những
lĩnh
vực
nhạy
cảm,
rủi
ro
cao
của
các
tập
đoàn,
tổng
công
ty
nhà
nước
hàng
năm
đều
không
vượt
mức
quy
định.
Trong
khi
năng
lực
quản
trị
của
các
doanh
nghiệp
còn
hạn
chế,
sức
cạnh
tranh
chưa
mạnh
thì
việc
siết
đầu
tư
này
để
định
hướng
các
doanh
nghiệp
nhà
nước
tập
trung
vốn
đầu
tư
vào
những
ngành
nghề
kinh
doanh
chính.
Không
hoàn
toàn
đồng
tình
với
quan
điểm
của
ban
soạn
thảo,
đại
diện
Tập
đoàn
Bưu
chính
Viễn
thông
Việt
Nam
(VNPT)
cho
rằng,
đã
đầu
tư
vào
lĩnh
vực
nhạy
cảm
thì
cần
phải
ở
một
mức
độ
đủ
để
kiểm
soát.
Ví
dụ,
VNPT
đang
đầu
tư
vào
Ngân
hàng
Hàng
hải
và
ngân
hàng
này
đang
hoạt
động
khá
hiệu
quả.
Tuy
nhiên,
do
sức
ép
thoái
vốn
đầu
tư
trái
ngành
nên
qua
hai
đợt
tăng
vốn
vừa
rồi,
VNPT
đều
không
được
phép
tăng
vốn
điều
lệ
và
giảm
dần
từ
20%
xuống
còn
15%
vốn
điều
lệ.
Chủ
tịch
Hội
đồng
Quản
trị
của
Ngân
hàng
Hàng
hải
vẫn
là
người
của
VNPT
cử,
đang
làm
theo
nhiệm
kỳ.
“Nếu
bầu
lại
theo
tỷ
lệ
vốn
thì
vị
chủ
tịch
này
sẽ
phải
rời
bỏ
vị
trí.
Như
thế,
VNPT
sẽ
mất
kiểm
soát.
Thực
tế,
nếu
xét
vào
hiệu
quả
thì
khoản
đầu
tư
vào
Ngân
hàng
Hàng
hải
của
VNPT
đang
đem
lại
lợi
nhuận
lớn
cho
tập
đoàn,
lớn
hơn
hiệu
quả
từ
một
số
doanh
nghiệp
con
xây
lắp
trong
tập
đoàn”,
vị
đại
diện
này
nói.
Về
quyền
quyết
định
đầu
tư,
ông
Trần
Long
An,
Trưởng
ban
Kiểm
soát
Tổng
công
ty
Xăng
dầu
Việt
Nam
(Petrolimex)
cho
rằng,
dự
thảo
quy
định
tỷ
lệ
hội
đồng
thành
viên
được
quyền
quyết
định
đầu
tư
tới
50%
vốn
điều
lệ
là
quá
thấp.
Bởi
50%
vốn
đối
với
các
doanh
nghiệp
nhỏ
là
không
lớn.
“Quy
định
như
thế
là
chặt
chẽ
quá”,
ông
An
nói.
Theo
ông,
quy
định
“tỷ
lệ
vốn
đầu
tư
vào
lĩnh
vực
ngân
hàng,
công
ty
bảo
hiểm,
công
ty
chứng
khoán
không
quá
10%
vốn
điều
lệ”
là
quá
ít,
đã
đầu
tư
thì
phải
ra
tấm,
ra
món,
đủ
độ
để
cầm
trịch,
chỉ
đạo
để
chủ
động
trong
kinh
doanh,
nên
chăng
tăng
lên
thành
15%,
vị
này
đặt
câu
hỏi.
Đại
diện
Petrolimex
cũng
cho
biết,
trong
một
số
trường
hợp,
việc
đầu
tư
không
phải
là
vì
lợi
nhuận
mà
để
phục
vụ
cơ
chế,
định
chế
tài
chính
cho
chính
doanh
nghiệp
đó.
Chẳng
hạn,
doanh
nghiệp
ông
đang
đầu
tư
vào
một
ngân
hàng
liên
doanh
với
Ấn
Độ,
để
hỗ
trợ
trong
việc
nhập
khẩu
xăng
dầu
và
hiện
ngân
hàng
này
đang
sinh
lãi
rất
tốt.
Với
những
lập
luận
như
vậy,
ông
Trần
Long
An
cho
rằng
nên
mở
tỷ
lệ
về
quyền
được
quyết
định
đầu
tư
cho
hội
đồng
thành
viên
là
không
quá
80%
vốn
điều
lệ.
Thêm
vào
đó,
“nghị
định
cũng
nên
quy
định
rõ
chỉ
nên
buộc
doanh
nghiệp
xin
ý
kiến
khi
đầu
tư
trái
ngành,
còn
với
ngành
nghề
chính
chờ
xin
ý
kiến
e
rằng
sẽ
mất
cơ
hội”,
ông
An
nói.
Đồng
tình
với
quan
điểm
này,
đại
diện
VNPT
nói,
với
các
tập
đoàn,
tổng
công
ty
nếu
phải
xin
ý
kiến
chủ
sở
hữu,
tức
là,
xin
ý
kiến
chỉ
đạo
của
Thủ
tướng
và
Thủ
tướng
thì
lại
chờ
ý
kiến
của
các
bộ,
ngành
thì
dễ
mất
cơ
hội
kinh
doanh.
Có
phần
e
ngại
về
chuyện
“siết
chặt
và
gấp
gáp”
vấn
đề
đầu
tư
ra
ngoài
ngành,
ông
Trịnh
Công
Loan,
Tổng
công
ty
Công
nghiệp
Xi
măng
Việt
Nam
(VICEM)
cho
rằng
việc
giảm
vốn
đầu
tư
ngoài
ngành
cần
có
lộ
trình.
Ví
dụ,
công
ty
tài
chính
của
VICEM
thành
lập
với
vốn
điều
lệ
600
tỷ
đồng.
Tỷ
lệ
góp
vốn,
chủ
yếu
trái
ngành
của
các
đơn
vị
khác
thường
là
30%
vốn
điều
lệ,
như
Tổng
công
ty
Thép,
Ngân
hàng
Ngoại
thương.
“Nếu
các
đối
tác
đồng
lọat
rút
vốn
về
thì
số
phận
các
công
ty
tài
chính
sẽ
thế
nào?”,
ông
Loan
nói.