Khi
mưa
lớn
thì
nước
phải
vào
hệ
thống
cống
rãnh
của
thành
phố,
ra
kênh
rạch
rồi
mới
ra
biển.
Sau
khi
Bangkok
bị
ngập
lụt,
TP.HCM
hứng
chịu
trận
triều
cường
kỷ
lục
vào
cuối
tháng
10.2011,
cùng
nhiều
đô
thị
khu
vực
đồng
bằng
bất
ngờ
bị
ngập
sâu,
thì
câu
chuyện
“ngăn
triều
–
chống
ngập”
cho
khu
vực
phía
Nam
được
hâm
nóng,
trong
đó
có
dự
án
xây
dựng
tuyến
đê
biển
Vũng
Tàu
–
Gò
Công
của
tổng
cục
Thuỷ
lợi.
Dịp
này,
chúng
tôi
đã
có
cuộc
phỏng
vấn
GS.TS
Đào
Xuân
Học,
thứ
trưởng
bộ
Nông
nghiệp
và
phát
triển
nông
thôn,
tổng
cục
trưởng
tổng
cục
Thuỷ
lợi,
về
“tiến
độ
của
dự
án”
và
ghi
nhận
một
số
ý
kiến
của
các
nhà
khoa
học
về
tính
khả
thi
của
dự
án
được
cho
là
táo
bạo
này.
Ông
Đào
Xuân
Học,
chủ
nhiệm
dự
án,
cho
biết:
tháng
11
này
sẽ
báo
cáo
dự
án
với
phía
Hà
Lan
(đơn
vị
hỗ
trợ
kỹ
thuật)
và
cuối
năm
2011
sẽ
trình
Chính
phủ
để
bổ
sung
vào
quy
hoạch
thực
hiện
tiền
khả
thi.
Nếu
được
thông
qua,
dự
án
sẽ
được
thi
công
trong
thời
gian
bốn
năm.
Ông
Học
khẳng
định,
với
tuyến
đê
này,
dù
mực
biển
dâng
lên
1m
thì
cả
khu
vực
TP.HCM
và
Đồng
Tháp
Mười
có
thể
“yên
tâm
tuyệt
đối”.
Ông
có
thể
khái
quát
về
dự
án
này?
Dự
án
này
gồm
một
tuyến
đê
chính
dài
28km
từ
Vũng
Tàu
đến
Gò
Công,
chiều
sâu
nước
trung
bình
là
6,5m
(tính
từ
cốt
0,00m);
một
tuyến
đê
phụ
dài
11km,
chiều
sâu
nước
trung
bình
4,5m
chạy
vuông
góc
với
Cần
Giờ
và
một
cống
kiểm
soát
triều,
thoát
lũ
và
các
âu
thuyền
phục
vụ
giao
thông
thuỷ.
Mặt
đê
rộng
25m.
Sau
khi
đê
được
xây
dựng
xong
sẽ
tạo
được
một
hồ
chứa
với
diện
tích
khoảng
40.000ha
(chưa
kể
diện
tích
bán
ngập),
dung
tích
chứa
khoảng
2,5
tỉ
m³
(kể
cả
nước
trong
sông).
Trong
khi
đó,
lũ
ở
tất
cả
các
hồ
Trị
An,
Sài
Gòn,
Đồng
Tháp
Mười…
đổ
về
cao
nhất
cũng
chỉ
với
tổng
lưu
lượng
khoảng
13.000m³/s.
Như
vậy,
trong
thời
gian
đóng
cống,
lượng
nước
lũ
đổ
về
chỉ
khoảng
trên
400
triệu
m³.
Khi
triều
lên
đến
1m
chúng
tôi
sẽ
đóng
cống,
triều
rút
thì
lại
mở
cống
ra.
Tháng
11.2010
GS.TS
Đào
Xuân
Học
và
các
cộng
sự
đã
đưa
ra
ý
tưởng
xây
dựng
đê
biển
Vũng
Tàu
–
Gò
Công
sau
khi
thực
hiện
chuyến
đi
khảo
sát,
trao
đổi
về
kinh
nghiệm
và
bài
học
làm
đê
biển
của
Hàn
Quốc.
Ngày
17.2.2011,
bộ
trưởng
bộ
Nông
nghiệp
và
phát
nông
thôn
Cao
Đức
Phát
chủ
trì
cuộc
họp
để
nghe
viện
Quy
hoạch
thuỷ
lợi
miền
Nam
báo
cáo
dự
án
Quy
hoạch
tổng
thể
thuỷ
lợi
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
trong
điều
kiện
biến
đổi
khí
hậu
nước
biển
dâng
và
trong
báo
cáo
đã
đề
cập
đến
nội
dung
dự
án
đê
biển
Vũng
Tàu
–
Gò
Công.
Ngày
1.3.2011,
Thủ
tướng
Nguyễn
Tấn
Dũng
đã
chủ
trì
buổi
họp
của
thường
trực
Chính
phủ
nghe
lãnh
đạo
bộ
Nông
nghiệp
và
phát
triển
nông
thôn
báo
cáo
kết
quả
bước
đầu
nghiên
cứu
dự
án
đê
biển
Vũng
Tàu
–
Gò
Công.
Sau
đó,
bộ
Khoa
học
và
công
nghệ
đã
tổ
chức
các
hội
đồng
khoa
học,
giao
nhiệm
vụ
xét
tuyển
sáu
đề
tài
khoa
học
phục
vụ
cho
dự
án
tuyến
đê
biển
Vũng
Tàu
–
Gò
Công.
Hiện
nay,
sáu
đề
tài
khoa
học
này
đang
thực
hiện. |
Được
biết,
kinh
phí
đầu
tư
cho
dự
án
rất
lớn,
liệu
có
quá
tốn
kém?
Nếu
chỉ
xây
dựng
một
hồ
chứa
nước
có
dung
tích
lớn
hơn
2
tỉ
m³
(tức
lớn
hơn
hồ
Dầu
Tiếng)
thì
phải
mất
từ
40.000
–
60.000
tỉ
đồng
và
mất
khoảng
30.000ha
đất.
Trong
khi
đó,
thực
hiện
tuyến
đê
biển,
số
tiền
đầu
tư
dự
tính
cũng
chỉ
khoảng
50.000
tỉ
đồng
lại
có
được
hồ
chứa
khoảng
40.000ha.
Nếu
dự
án
chỉ
làm
trong
TP.HCM
thì
chỉ
có
thể
giải
quyết
được
một
vùng
với
diện
tích
150.000ha,
còn
làm
theo
đề
xuất
của
chúng
tôi
thì
giải
quyết
cho
cả
một
vùng
rộng
đến
1
triệu
ha.
Theo
ông,
khi
mưa
lớn
và
triều
cao
thì
tuyến
đê
này
có
gây
tác
dụng
ngược?
Khi
mưa
lớn
thì
nước
phải
vào
hệ
thống
cống
rãnh
của
thành
phố,
ra
kênh
rạch
rồi
mới
ra
biển.
Do
đó,
việc
nước
có
thoát
được
hay
không
còn
phụ
thuộc
vào
cống
rãnh
trong
thành
phố.
Còn
dự
án
này
là
để
giải
quyết
bài
toán
nhận
nước
tiêu
cho
thành
phố.
Với
mức
nước
hiện
nay
ở
sông
Sài
Gòn,
kể
cả
có
lũ
lớn
thì
hồ
chứa
nước
của
dự
án
này
có
thể
điều
tiết
được.
Trước
đây,
bộ
Nông
nghiệp
và
phát
triển
nông
thôn
cũng
đã
đưa
ra
dự
án
thuỷ
lợi
chống
ngập
do
thuỷ
triều
tại
TP.HCM
và
được
Chính
phủ
phê
duyệt,
nhưng
đã
thất
bại?
Trước
tiên,
tôi
thành
thật
xin
lỗi
vì
đã
làm
TP.HCM,
Chính
phủ
bị
dư
luận
phàn
nàn
về
vấn
đề
này.
Tuy
nhiên,
chúng
tôi
cũng
mong
mọi
người
thông
cảm,
vì
nhận
thức
là
cả
một
quá
trình,
không
phải
dễ
dàng.
Lúc
đó
đề
ra
ba
phương
án
và
đã
chọn
phương
án
làm
cống
trên
sông
Soài
Rạp.
Thế
nhưng,
khi
thực
hiện
lại
gặp
một
khó
khăn
không
thể
giải
quyết
được,
đó
là
lũ
về
kết
hợp
triều
lên
cao,
nên
đã
thất
bại.
Thật
ra
chúng
tôi
đã
có
ý
tưởng
xây
dựng
tuyến
đê
biển
này
từ
rất
lâu,
khi
phát
hiện
được
tính
hiệu
quả
đê
biển
là
rất
tốt,
vì
ở
đó
nó
trở
thành
hồ
chứa
lũ,
nhưng
thực
sự
lúc
đó
chúng
tôi
cũng
không
dám
đề
xuất.
Mãi
đến
một
năm
sau,
khi
chúng
tôi
đi
tham
quan
một
tuyến
đê
ở
Hàn
Quốc
thì
thấy
cách
làm
giống
với
ý
tưởng
của
mình.
Tuyến
đê
này
cũng
lấn
biển,
hồ
chứa
14.000ha...
Kinh
phí
đầu
tư
lên
đến
2,7
tỉ
USD
nhưng
họ
vẫn
đầu
tư.
Trong
khi
đó,
xây
dựng
tuyến
đê
biển
của
chúng
ta
có
diện
tích
hồ
chứa
lớn
hơn,
chi
phí
cũng
thấp
hơn
lại
giúp
tiêu
úng,
tiêu
lũ
rất
thuận
lợi,
tại
sao
chúng
ta
không
đầu
tư.
Tuy
nhiên,
bây
giờ
để
nói
là
khả
thi
hay
không
thì
vẫn
còn
quá
sớm,
bởi
còn
đang
nghiên
cứu
để
chuẩn
bị
làm
đề
án
khả
thi.
Khoan
địa
chất
thì
thấy
địa
chất
tốt.
Có
thể
dự
án
này
có
nhiều
người
ủng
hộ
nhưng
cũng
không
ít
người
phản
đối.
Vậy
ông
đánh
giá
như
thế
nào
về
cái
“được
–
mất”
nếu
dự
án
này
được
triển
khai?
Như
tôi
đã
nói,
giai
đoạn
trước
mắt
dự
án
sẽ
đáp
ứng
được
yêu
cầu
thoát
nước
của
TP.HCM
và
Đồng
Tháp
Mười,
kể
cả
mực
nước
biển
dâng
lên
1m
vẫn
đáp
ứng
được,
chi
phí
cũng
thấp
hơn
so
với
dự
án
phải
thực
hiện
ở
TP.HCM.
Hơn
nữa,
dự
án
này
còn
rút
ngắn
được
giao
thông
từ
các
tỉnh
miền
Tây
ra
Vũng
Tàu
gần
150km.
Đương
nhiên,
công
trình
lớn
thì
sẽ
có
tác
động
môi
trường
lớn
hơn,
ảnh
hưởng
đến
giao
thông
thuỷ,
nuôi
trồng
thuỷ
sản…
Việc
nước
biển
dâng,
biến
đổi
khí
hậu
thì
đã
quá
rõ,
nếu
chúng
ta
không
làm
cách
này
thì
cũng
làm
cách
khác.
Vấn
đề
là
chúng
ta
chọn
cách
làm
đạt
hiệu
quả
cả
trước
mắt
và
lâu
dài,
đó
mới
là
cái
khó.