Thói quen “dễ tính”

Thói quen “dễ tính”
Thay cho các thương lái người Trung Quốc ra đồng định giá như cách đây 3 – 4 năm là những thương nhân từ miền Bắc vào, thậm chí có người cưới vợ ở rể để mua khoai ở Vĩnh Long.
 
Đại diện hợp pháp


Nhà ông Tư Được, chủ một vựa khoai lớn ở xã Tân Thành, huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long, có một người con gốc Bắc rất giỏi tiếng Hoa. Họ trao đổi thường xuyên với thương lái Trung Quốc trên điện thoại để chuyển hàng từ Bình Tân ra biên giới phía Bắc theo kế hoạch điều khiển từ xa, chẳng vấp phải khó khăn nào cả. 





Thu hoạch khoai lang ở Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long. Ảnh: Ngọc Bích

Những chiếc xe container trọng tải 28 tấn chạy xuyên Việt, đóng hàng tại thị xã Bình Minh cũng do các thương nhân từ ngoài Bắc điều phối. Hệ thống điều vận xuyên Việt gắn với bên mua chi phối việc gieo trồng tại Bình Tân từ nhiều năm nay. Cước phí từ Bình Minh đi Hà Nội 45 triệu đồng/xe (28 tấn), Bình Minh – Lạng Sơn: 52 –56 triệu đồng/xe container, trọng tải 28 tấn. Mỗi chuyến xe như thế trị giá hàng khoảng 400 triệu đồng, trong khi vốn liếng của các hợp tác xã sản xuất và làm dịch vụ tại Bình Tân chỉ vài ba trăm triệu đồng. Chỉ cần so vốn liếng cũng đủ biết ai mạnh ăn mạnh nói hơn ai.
 
Thương lái luôn ở kèo trên kể từ khi diện tích trồng khoai mở rộng. Năm 2011, vụ khoai ở Bình Tân trúng lớn, lại được giá nên diện tích trồng khoai ở huyện này mở rộng trên 5.550ha, hiện nay đã gần 10.000ha. Lúc đó, tại Bình Minh mọc lên mười kho vựa, tập trung ở ấp Thuận Tiến A, Thuận Tiến B, C của xã Thuận An.
 
Vòng Công Sầu, một người Trung Quốc trú quán tại Đồng Nai, đến ấp Thuận Tiến C, xã Thuận An tổ chức hệ thống kho vựa với sự tham gia của chín người Việt Nam. Diện tích kho đã nhanh chóng mở rộng trên 3.345m2. Lúc đông ken, số người Trung Quốc hiện diện tại vùng khoai là 19 người. Thật khó có thể hình dung được với chỉ chừng đó người vậy mà họ không chỉ thu hút vào hệ thống kho vựa trả lương công nhật khoảng 485 người (năm 2011), mà còn khiến hàng vạn người xoay theo trục giá cả và việc làm theo chuỗi cung ứng khoai. Số lao động tham gia vào ngành hàng khoai lang ở vùng khoai Bình Tân không dưới 58.000 người (88%), khi sản lượng 300.000 – 400.000 tấn/năm.
 
Ban đầu, tiền công nhật cho người làm tại kho bãi là 60.000 đồng/ngày, nếu làm tăng ca thì một giờ công là 10.000 đồng/giờ vào ban ngày, còn ban đêm là 15.000 đồng/giờ. Hiện nay, giá thuê mướn lao động nam bốc vác là 80.000 đồng/tấn, lao động nữ phân loại khoai 110.000/người/ngày. Tiền thuê người quản lý phụ trách kỹ thuật là 7 triệu đồng/tháng, tiền công nhật chăm sóc: 80.000 – 100.000 đồng/ngày công. Thông qua thương lái, vựa địa phương thuê “cò” khảo sát tại ruộng khoai gần thu hoạch. Họ chi trả cho cò 100.000 đồng/công (1.000m2). Sau khi thoả thuận giá, ngày mua, thương lái đặt cọc mỗi công 2 – 3 triệu đồng. Nhiều người trồng khoai cho rằng đây là kinh nghiệm “xương máu” và là bước tiến sau 5 – 7 năm làm ăn với thương lái Trung Quốc.
 
“Bài ngửa“ pháp lý
 
Cách đây năm năm, các thương lái Trung Quốc, thông qua người địa phương, đã thuê 42ha. Lúc đó, tiền thuê đất là 35 giạ lúa/năm, hợp đồng trong ba năm và ứng trước là 2 triệu đồng, sau một năm trả đủ theo giá lúa thời vụ. Nhưng rồi, các quy định pháp luật đã ngăn cản điều đó. Theo những người trồng khoai ở Bình Tân, từ giữa năm 2012, giá khoai lang thường xuyên sụt giảm do các thương lái Trung Quốc “không thoải mái”. Từ tháng 7 năm nay, giá khoai loại 1 (không bị lủng, sùng, trọng lượng trên 100g/củ) và loại 2 (không bị lủng, sùng, trọng lượng trên 50g/củ) cùng giá 800.000 đồng/tạ, nay còn 670.000 đồng/tạ do Trung Quốc cũng bị khô hạn do biến đổi khí hậu, nhiều vùng khoai thất mùa. Sản lượng khoai ở Sichuan, tỉnh có sản lượng khoai lớn nhất Trung Quốc, không đủ cung cấp.
 
Chiến thuật ba bước
 
Từ dạo đó đến nay, xe container chở khoai qua cửa khẩu đưa sang Trung Quốc vẫn theo đường tiểu ngạch, dù người Trung Quốc hay thương lái người Việt mua thì người bán đều không có hợp đồng. Thương lái cho giá 1,2 – 1,5 triệu đồng/tạ khi khoai còn non, miễn đủ trọng lượng, thời gian “được giá” chỉ kéo dài hai tuần. Cơ hội tạm thời tách số ít người trồng khoai lang thành “nhóm nhỏ may mắn”. Đến khi thu hoạch rộ, giá giảm 40 – 50%, người trồng tự an ủi, giá vẫn cao hơn lúa, lại được xem là số đông thành công. Tới khi giá tiếp tục giảm sâu, thời gian giảm giá thường kéo dài so với lúc thương lái đẩy giá lên tới đỉnh, loại các công ty trong nước ra khỏi cuộc chơi. Thương lái Trung Quốc xài chiến thuật ba bước: đầu tiên họ kéo giá lên để mở rộng quy mô sản xuất và loại doanh nghiệp Việt, tiếp theo là ngưng hoặc mua cầm chừng cho giá xuống khi thu hoạch rộ, và cuối cùng là tuỳ chỉnh giá khi đã loại đối thủ cạnh tranh, hướng nguyên liệu “thần phục” về biên giới Việt – Trung.
 
Dễ tính – khó tính?
 
Người trồng khoai phiền lòng nói rằng nếu tính theo giá bán như năm nay, trị giá khoai đã lên hàng ngàn tỉ đồng, không có doanh nghiệp trong nước nào tới mua nên dù không muốn cũng phải bán cho Trung Quốc, “không thì bán cho ai”. Kể ra, cũng có một vài hợp đồng đi Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia… nhưng theo nhiều người trồng tại Tân Thành thì chẳng bõ bèn gì.
 
Ông Masashi Yamashita, tổng giám đốc công ty CP Kushima Aoi Farm (Nhật Bản), đang tìm hiểu cơ hội đầu tư dự án sản xuất, chế biến và kinh doanh khoai lang tại Vĩnh Long. Ông muốn thuê 10ha đất để đầu tư thử nghiệm dự án sản xuất có kiểm soát, chế biến và kinh doanh khoai lang. Kushima Aoi Farm muốn bán năm loại khoai lang ngọt tới 150 cơ sở bán hàng tại Nhật. Tất cả được kiểm soát theo quy trình an toàn.
 
Những người trồng khoai nhận định: “Nhật Bản là thị trường khó tính, còn Trung Quốc là thị trường dễ tính”. Thị trường “dễ tính” dù giá trồi sụt nhưng bán có tiền ngay, xài số lượng lớn, còn “khó tính” được giá nhưng số lượng nhỏ.
 
Thay đổi thói quen “dễ tính” khi làm ăn với Trung Quốc để trở lại cách gieo trồng tử tế như cách đây nửa thể kỷ, để bán cho những thị trường khác, dù được giá và bền vững… không đơn giản chút nào.   
 
Hoàng Lan
Theo báo Thế giới tiếp thị