Khó phát triển nguồn năng lượng điện thay thế do giá cao
- Thứ hai - 20/07/2015 04:16
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
“Có
3
phương
án
thay
thế
nhiệt
điện
than
là
điện
sinh
khối,
điện
gió
và
điện
năng
lượng
mặt
trời.
Tuy
nhiên,
tại
ĐBSCL
cho
đến
nay
vẫn
không
có
sự
lựa
chọn
nào
khác
ngoài
nhiệt
điện
than
do
các
phương
án
thay
thế
giá
cao,
khó
thu
hút
các
nhà
đầu
tư”,
ông
Nguyễn
Đức
Cường,
giám
đốc
Trung
tâm
Năng
lượng
thuộc
Viện
năng
lượng
cho
biết
như
vậy
tại
hội
thảo
“Cơ
hội
và
thách
thức
phát
triển
nguồn
điện
tại
ĐBSCL”,
do
Ban
chỉ
đạo
Tây
Nam
bộ
phối
hợp
với
Trung
tâm
phát
triển
sáng
tạo
xanh
(Green
ID)
tổ
chức
tại
TP
Cần
Thơ
ngày
17.07.2015.
“Tại sao biết tác động của nhiệt điện than, thủy điện có ảnh hướng lớn đến môi trường, đe dọa cuộc sống người dân mà chúng ta không tìm các giải pháp thay thế như điện gió, điện năng lượng mặt trời, tận dụng nguyên liệu đốt từ bã mía, rơm rạ…?”, ông Nguyễn Minh Thế, phó giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ đặt vấn đề. Ông Nguyễn Đức Cường cho rằng nếu tận dụng được thì điện sinh khối cũng chỉ cung ứng được 1.000-1.500 MW; điện gió theo quy hoạch đến năm 2030 đạt 2.600 MW, nhưng hiện nay mới có được 3 dự án với công suất 32 MW; điện mặt trời thì gặp rào cản về quỹ đất, cho nên nếu đi theo hướng này sẽ không thể nào đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế được.
Hiện nay, tổng công suất lắp đặt điện tại ĐBSCL chỉ 2.100MW, chiếm 6,02% tỷ trọng cả nước, chủ yếu từ Khí điện đạm Cà Mau, Nhà máy Nhiệt điện Ô Môn, Nhà máy Nhiệt điện Cần Thơ. Các Nhà máy chạy bằng dầu DO và FO chủ yếu sử dụng trong trường hợp thiết hụt điện, còn bình thường thì sử dụng nguồn chạy bằng tua bin khí, điện từ phía Bắc truyền vào, hiện ở phía Nam đang thiếu 3.000MW.
Bà Hoàng Thanh Bình, Trung tâm Green ID cho biết, phát thải khí nhà kính từ các nhà máy nhiệt điện than giai đoạn 2014-2022 ước chiếm khoảng 63% tổng lượng phát thải khí nhà kính của các nhà máy nhiệt điện. Việc phát triển các nhà máy nhiệt điện than còn ảnh hưởng đến hệ sinh thái, sản xuất nông nghiệp, các công trình xây dựng, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
Việc phát triển các nhà máy nhiệt điện than sẽ thải ra một lượng tro xỉ khồng lồ, ước khoảng 14,8 triệu tấn mỗi năm từ năm 2020 và có đến 29,1 triệu tấn mỗi năm từ năm 2030.
Tin & ảnh: Ngọc Bích
“Tại sao biết tác động của nhiệt điện than, thủy điện có ảnh hướng lớn đến môi trường, đe dọa cuộc sống người dân mà chúng ta không tìm các giải pháp thay thế như điện gió, điện năng lượng mặt trời, tận dụng nguyên liệu đốt từ bã mía, rơm rạ…?”, ông Nguyễn Minh Thế, phó giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ đặt vấn đề. Ông Nguyễn Đức Cường cho rằng nếu tận dụng được thì điện sinh khối cũng chỉ cung ứng được 1.000-1.500 MW; điện gió theo quy hoạch đến năm 2030 đạt 2.600 MW, nhưng hiện nay mới có được 3 dự án với công suất 32 MW; điện mặt trời thì gặp rào cản về quỹ đất, cho nên nếu đi theo hướng này sẽ không thể nào đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế được.
Hiện nay, tổng công suất lắp đặt điện tại ĐBSCL chỉ 2.100MW, chiếm 6,02% tỷ trọng cả nước, chủ yếu từ Khí điện đạm Cà Mau, Nhà máy Nhiệt điện Ô Môn, Nhà máy Nhiệt điện Cần Thơ. Các Nhà máy chạy bằng dầu DO và FO chủ yếu sử dụng trong trường hợp thiết hụt điện, còn bình thường thì sử dụng nguồn chạy bằng tua bin khí, điện từ phía Bắc truyền vào, hiện ở phía Nam đang thiếu 3.000MW.
Bà Hoàng Thanh Bình, Trung tâm Green ID cho biết, phát thải khí nhà kính từ các nhà máy nhiệt điện than giai đoạn 2014-2022 ước chiếm khoảng 63% tổng lượng phát thải khí nhà kính của các nhà máy nhiệt điện. Việc phát triển các nhà máy nhiệt điện than còn ảnh hưởng đến hệ sinh thái, sản xuất nông nghiệp, các công trình xây dựng, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
Việc phát triển các nhà máy nhiệt điện than sẽ thải ra một lượng tro xỉ khồng lồ, ước khoảng 14,8 triệu tấn mỗi năm từ năm 2020 và có đến 29,1 triệu tấn mỗi năm từ năm 2030.
Tin & ảnh: Ngọc Bích