Thưa
bà,
cơ
hội
toàn
cầu
của
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
như
thế
nào?
Việt
Nam
xuất
phát
từ
nền
kinh
tế
có
quy
mô
nhỏ
nên
có
những
mặt
hạn
chế,
cơ
hội
toàn
cầu
hóa
mở
ra
sẽ
giúp
Việt
Nam
vượt
lên
được
nếu
như
chúng
ta
chấp
nhận
những
điều
kiện
mới.
Như
hệ
thống
thể
chế
phải
tương
thích
với
cam
kết
khi gia
nhập
các
hiệp
định.
Nghĩa
là
chúng
ta
phải
nâng
bậc
thể
chế
của
mình
lên
theo
thể
chế
kinh
tế
thị
trường
hiện
đại.
Doanh
nghiệp
sẽ
có
một
môi
trường
kinh
doanh
sòng
phẳng
bởi
đây
là
điều
bắt
buộc
Việt
Nam
phải
làm
khi
tham
gia
hội
nhập.
Mặt
khác,
chính
sức
ép
cạnh
tranh
là
cơ
hội
giúp
doanh
nghiệp
vượt
lên
và
nâng
cao
năng
lực
cạnh
tranh
của
mình.
Có
nhiều
cơ
hội
như
có
các
đối
tác
mới
để
làm
ăn,
các
luồng
công
nghệ,
luồng
nhân
lực di
chuyển
tự
do,
từ
đó
sẽ
tạo
cho
doanh
nghiệp
Việt
Nam
tiếp
cận
các
công
nghệ
mới, tìm
kiếm
thêm
nguồn
nhân
lực
bổ
sung
cho
những
cái
thiếu
của
mình.
Nhất
là
về
kỹ
năng,
kỹ
thuật.
Vậy
doanh
nghiệp
Việt
Nam
cần
làm
gì
để
tận
dụng
được
các
cơ
hội
và
lợi
thế
của
mình
trong
cạnh
tranh
toàn
cầu
này
thưa
bà?
Thứ
nhất, doanh
nghiệp
Việt
Nam
phải
nâng
cao
hơn
nữa
tinh
thần
kinh
doanh.
Nghĩa
là đã
dấn
thân
vào
thương
trường
phải
biết
chấp
nhận
rủi
ro,
biết
mình
biết
người,
biết
tính
xa
hơn.
Bên
cạnh
đó
phải
xây
dựng
chiến
lược
và
tìm
kiếm
những
câu
chuyện
phát
triển
để
thực
hiện
được
khát
vọng
kinh
doanh.
Đừng
kinh
doanh
theo
kiểu
làm
ăn
chộp
giật,
ngắn
hạn,
không
biết
liên
kết.
Thứ
hai, doanh
nghiệp
Việt
Nam
phải
phát
triển
trên
cơ
sở
sáng
tạo.
Ở đây
là
tạo
điều
kiện
cho
mình
nâng
cao
chất
lượng
sản
phẩm,
dịch
vụ,
chất
lượng
của
hệ
thống
quản
trị,
của
nguồn
nhân
lực… từ
đó
nâng
dần
lên
để
tiến
tới
bằng
các
nước
trong
khu
vực
và
thế
giới.
Đây
là
điều
kiện
quan
trọng
để
tìm
chỗ
đứng
tốt
hơn
trong
chuỗi
giá
trị
toàn
cầu.
Trong
chuỗi
giá
trị
này
chỉ
cần
một
doanh
nghiệp
phá
thôi
thì
cũng
có
thể
làm
vỡ
tất
cả
và
không
những
ảnh
hưởng
tới
mình
mà
còn
ảnh
hưởng
đến
các
đối
tác
khác.
Thưa
bà,
vậy
khó
khăn
lớn
của
doanh
nghiệp
Việt
Nam
hiện
nay
họ
gặp
phải
là
gì?
Doanh
nghiệp
Việt
Nam
đang
gặp hai khó
khăn.
Mặt
khách
quan
là
những
yếu
tố
không
phụ
thuộc
vào
họ
mà
phụ
thuộc
vào
môi
trường
kinh
doanh
của
Việt
Nam.
Mặt
khác
là
những
khó
khăn
của
bản
thân
của
doanh
nghiệp.
Doanh
nghiệp
Việt
đang
hoạt
động
trong
một
môi
trường
kinh
doanh
chưa
thuận
lợi,
còn
nhiều
rào
cản.
Chúng
ta
có
hệ
thống
các
doanh
nghiệp
nhà
nước
sử
dụng
rất
lớn
các
nguồn
lực
của
đất
nước,
vì
thế
khả
năng
tiếp
cận
các
nguồn
lực
của
doanh
nghiệp tư
nhân bị
hạn
chế
rất
nhiều.
Sân
chơi
chưa
sòng
phẳng,
ưu
tiên
hàng
đầu
cho
doanh
nghiệp
nhà
nước
và
đầu
tư
nước
ngoài.
Trong
khi
đó
doanh
nghiệp
Việt
Nam
đa
phần
là
nhỏ
và
vừa
lại
chịu
thua
thiệt.
Khi
các
hiệp
định
sắp
tới
có
hiệu
lực,
thị
trường
Mỹ,
EU
là
một
trong
những
thị
trường
lớn
mà
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
hướng
vào,
vậy
làm
sao
để
vượt
qua
những
rào
cản
để
vào
thị
trường
này,
nhất
là
các
ngành
nông
sản?
Doanh
nghiệp
Việt
Nam
cần
xác
định
rõ
đâu
là
thị
trường
của
mình,
Mỹ
là
cơ
hội
lớn
nhưng
không
phải
cho
tất
cả
các
doanh
nghiệp.
Ở
Mỹ
hệ
thống
thể
chế
thị
trường
hoàn
thiện.
Với
vị
thế
nền
kinh
tế
đứng
đầu
toàn
cầu
nên
họ
có
quyền
đặt
ra
những
quy
định,
ai
muốn
chơi
với
họ
phải
tuân
theo.
Mình
đừng
trông
chờ
Mỹ
sẽ
hạ
chuẩn
để
hàng
Việt
Nam
vào.
Vì
thế,
doanh
nghiệp
Việt
vào
Mỹ
phải
chấp
nhận
những
tiêu
chuẩn
của
Mỹ,
kể
cả
những
yêu
cầu
về
mặt
thể
chế.
Ví
dụ
như
sự
minh
bạch,
sòng
phẳng…
Với
nông
sản,
yêu
cầu
về
vệ
sinh
an
toàn
thực
phẩm
là
yêu
cầu
cực
kỳ
cao
của
các
thị
trường
trên.
Muốn
vào
phải
cố
gắng
đáp
ứng
được
yêu
cầu
này,
đừng
nghĩ
cách
che
đậy
hay
vào
bằng
con
đường
không
chính
đáng.
Nhiều
khi,
chỉ
một
lần
vi
phạm
những
quy
định
của
họ
thì
trừng
phạt
có
thể
làm
cho
doanh
nghiệp
Việt
phá
sản
và
ảnh
hưởng
đến
uy
tín
của
hàng
Việt
Nam.
Chúng
ta
cũng
còn
rất
nhiều
thị
trường
khác
xung
quanh.
Như
thị
trường
châu
Á
Thái
Bình
Dương,
Đông
Nam
Á,
ASEAN
+6,
họ
có “gu” tiêu
dùng,
thị
hiếu
khá
gần
với
Việt
Nam.
Vậy
tại
sao
chúng
ta
lại
bỏ
qua
những
thị
trường
như
thế
này
mà
cứ
đi
những
thị
trường
xa?
Xin
cám
ơn
bà!
Trần
Quỳnh thực
hiện