1/
Cotton
tăng
giá
cùng
thị
trường
các
loại
hạt
|
Đồng
Nhân
Dân
Tệ
tăng
trong
khi
USD
tiếp
tục
giảm
Ngày
8
tháng
6,
Hợp
đồng
tương
lai
của
Bông
(Cotton)
tăng
1.4
điểm
%,
hay
1.18
xu
mỗi
lb
(pound).
Song
song
đó,
hợp
đồng
tương
lai
của
các
loại
nguyên
liệu
và
nông
nghiệp
khác
cũng
đồng
loạt
tăng,
tiêu
biểu
là
Đậu
tương
(Soybean),
và
Ngô
(Corn).
Trong
một
tin
khác,
sản
lượng
Đậu
tương
(Soybean)
năm
nay
của
Argentina
dự
kiến
sẽ
thấp
hơn
(rơi
vào
43.5
triệu
tấn
so
với
49
triệu
tấn
của
cùng
kỳ
năm
ngoái.
Argentina
là
một
trong
những
quốc
gia
hàng
đầu
trong
việc
xuất
khẩu
thức
ăn
gia
súc
chế
biến
từ
Đậu
tương
(Soymeal
livestock
feed).
Với
chính
sách
tiếp
tục
in
tiền
và
hỗ
trợ
cũng
như
cải
tổ
cơ
sở
hạ
tầng
kinh
tế
Mỹ
của
chính
quyền
Biden,
Đồng
bạc
xanh
Dollar
sẽ
tiếp
tục
giảm
so
với
các
đồng
tiền
khác
dưới
đà
tăng
của
lạm
phát.
Mặt
khác,
đồng
Nhân
dân
tệ
(Yuan)
của
Trung
Quốc
đã
tăng
khá
nhiều
so
với
Đồng
bạc
xanh
–
tăng
thêm
khoảng
12%
kể
từ
thasng
5
năm
ngoái
2020.
Tuần
trước,
Ngân
hàng
trung
ương
của
Trung
Quốc
đã
yêu
cầu
tăng
tỷ
lệ
dự
trữ
nội
tệ
trên
các
khoản
ký
gửi
ngoại
hối
–
một
động
thái
lần
đầu
tiên
trong
14
năm
qua.
Roland
Rajah,
nhà
kinh
tế
hàng
đầu
tại
Viện
Lowy
nhận
định:
“Xuất
khẩu
sang
Trung
Quốc
có
thể
bị
suy
giảm
trong
các
lĩnh
vực
bị
trừng
phạt,
nhưng
phần
lớn
các
mặt
hàng
này
đã
tìm
được
‘bến
đỗ’
tại
thị
trường
mới”.
Cơ
hội
mới
tại
những
thị
trường
mới
Than
là
một
trong
những
mặt
hàng
phát
triển
mạnh,
bất
chấp
lệnh
cấm
của
Trung
Quốc.
Nhà
kinh
tế
Rajah
cho
biết,
các
nhà
xuất
khẩu
than
của
Australia
dường
như
đã
khá
thành
công
trong
việc
chuyển
hướng
sang
các
thị
trường
khác.
Ban
đầu,
than
xuất
khẩu
sang
các
thị
trường
chỉ
tăng
nhẹ
do
Trung
Quốc
lần
đầu
tiên
giảm
nhập
khẩu
than
vào
giữa
năm
2020.
Tuy
nhiên,
đến
tháng
10/2020,
xu
hướng
này
tăng
nhanh
khi
Trung
Quốc
nhắm
mục
tiêu
cụ
thể
vào
than
Australia.
“Các
nhà
xuất
khẩu
than
của
Australia
dường
như
đã
khá
thành
công
trong
việc
chuyển
hướng
sang
các
thị
trường
khác”.
– Roland
Rajah,
nhà
kinh
tế
hàng
đầu
tại
Viện
Lowy.
Vào
tháng
1/2021,
xuất
khẩu
than
của
Australia
sang
phần
còn
lại
của
thế
giới
đã
tăng
9,5
tỷ
USD
về
giá
trị
hàng
năm
so
với
trước
khi
có
lệnh
cấm.
Đáng
chú
ý,
than
của
Australia
đã
và
đang
giành
được
thị
phần
ở
Ấn
Độ.
Đồng
tình
với
nhận
định
của
ông
Roland,
Marcel
Thieliant,
nhà
kinh
tế
cấp
cao
của
Australia
và
New
Zealand
cho
hay,
trong
khi
xuất
khẩu
quặng
sắt
của
Australia
sang
Trung
Quốc
đã
giảm
40%
trong
năm
2020
thì
các
công
ty
khai
thác
than
đã
có
thể
chuyển
các
chuyến
hàng
sang
các
thị
trường
khác.
Nhà
kinh
tế
Thieliant
khẳng
định:
“Kết
quả
là
cuộc
xung
đột
không
gây
thiệt
hại
cho
nền
kinh
tế
Australia
như
nhiều
người
nghĩ”.
Không
chỉ
than
hay
quặng
sắt,
nhà
kinh
tế
Rajah
thông
tin,
các
mặt
hàng
xuất
khẩu
khác
như
lúa
mạch,
bông,
hải
sản
và
gỗ
cũng
đã
chuyển
hướng
kinh
doanh,
tìm
thấy
cơ
hội
ở
những
thị
trường
mới.
Ông
Rajah
nhấn
mạnh:
“Sau
khi
các
lệnh
trừng
phạt
của
Trung
Quốc
gia
tăng
vào
cuối
năm
2020,
doanh
số
bán
các
sản
phẩm
này
sang
các
thị
trường
khác
đã
tăng
mạnh.
Dường
như
đây
là
sự
thay
đổi
mạnh
mẽ,
báo
hiệu
kết
quả
tốt
đẹp
của
quá
trình
chuyển
hướng
thương
mại”.
Tuy
nhiên,
các
nhà
phân
tích
lưu
ý
rằng,
Australia
đã
gặp
khó
khăn
trong
việc
vận
chuyển
thịt
bò
và
rượu
vang.
“Chúng
tôi
cũng
luôn
tìm
kiếm
các
cơ
hội
khác
mà
chúng
tôi
có
thể
theo
đuổi,
cho
dù
đó
là
thông
qua
các
đối
tác
thương
mại
hiện
tại
hoặc
bằng
cách
mở
ra
những
con
đường
mới”. Bộ
trưởng
Thương
mai
Australia
Dan
Tehan.
Phó
thủ
tướng
Australia
Michael
McCormack
khẳng
định,
quốc
gia
này
đang
tìm
cách
đa
dạng
hóa
thị
trường.
Khi
Bắc
Kinh
áp
thuế
chống
bán
phá
giá
và
chống
trợ
cấp
đối
với
lúa
mạch,
Canberra
đã
tìm
đến
thị
trường
Mexico
và
vừa
gửi
chuyến
hàng
lúa
mạch
đầu
tiên
đến
thị
trường
này.
3/
Việt
Nam
–
Italy:
mục
tiêu
kim
ngạch
thương
mại
hai
chiều
5
tỷ
USD
Hiện
nay,
Việt
Nam
và
Italy
đã
trở
thành
những
đối
tác
ngày
càng
quan
trọng
của
nhau,
nhất
là
về
kinh
tế.
Theo
đó,
Việt
Nam
là
đối
tác
thương
mại
lớn
nhất
của
Italy
tại
ASEAN,
Italy
là
thị
trường
lớn
thứ
4
của
Việt
Nam
trong
EU.
Thứ
trưởng
Thứ
trưởng
Bộ
Ngoại
giao
Tô
Anh
Dũng
nhấn
mạnh,
trong
năm
2021,
để
tận
dụng
những
cơ
hội
mới
mà
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
EVFTA
đem
lại,
hai
nước
cần
tiếp
tục
tạo
thuận
lợi
cho
hàng
hóa
của
nhau
thâm
nhập
vào
thị
trường
nội
địa
cũng
như
thị
trường
EU
và
ASEAN,
hướng
đến
mục
tiêu
nâng
kim
ngạch
thương
mại
hai
chiều
lên
5
tỷ
USD.
Bên
cạnh
đó,
trong
bối
cảnh
thế
giới
phải
đối
mặt
với
nhiều
thách
thức,
với
vị
trí
và
vai
trò
là
Ủy
viên
không
thường
trực
Hội
đồng
Bảo
an
Liên
Hợp
Quốc
2021,
Việt
Nam
mong
muốn
Italy
phối
hợp,
thúc
đẩy
các
sáng
kiến,
hành
động
chung
trong
phòng
chống,
kiểm
soát
dịch
bệnh,
hỗ
trợ
người
dân
và
phục
hồi
nền
kinh
tế
giai
đoạn
hậu
Covid-19.
Đồng
thời,
Việt
Nam
cũng
cảm
ơn
những
sự
hỗ
trợ
quý
báu
của
Italy
về
nguồn
cung
vắc-xin
ngừa
Covid-19
cho
khu
vực
và
đối
với
Việt
Nam
thông
qua
cơ
chế
COVAX
do
WHO
khởi
xướng,
cũng
như
các
hoạt
động
hỗ
trợ
công
dân
Việt
Nam
hồi
hương
trong
năm
vừa
qua.
4/
Anh
ra
mắt
Cơ
quan
Phòng
vệ
thương
mại
ngay
khi
gia
nhập
CPTPP
Theo
đó,
TRA
có
chức
năng
điều
tra
các
khiếu
nại
từ
các
ngành
công
nghiệp
của
Anh
về
các
hoạt
động
thương
mại
không
công
bằng
và
sự
gia
tăng
không
lường
trước
được
trong
nhập
khẩu.
TRA
sẽ
hoạt
động
như
một
cơ
quan
đầu
não
của
Bộ
Thương
mại
quốc
tế
Anh
để
điều
tra
các
trường
hợp
có
thể
có
bán
phá
giá
và
hàng
nhập
khẩu
được
trợ
cấp
thông
qua
phân
tích
bằng
chứng
khách
quan.
Cơ
quan
này
sẽ
khuyến
nghị
áp
dụng
các
biện
pháp
phòng
vệ
thương
mại
mới,
chẳng
hạn
như
thuế
quan,
để
ngăn
chặn
thiệt
hại
đối
với
các
nhà
sản
xuất
Vương
quốc
Anh
bị
tổn
hại
bởi
các
hành
vi
thương
mại
không
công
bằng.
Các
nhà
điều
tra
của
cơ
quan
mới
sẽ
xem
xét
43
biện
pháp
phòng
vệ
thương
mại
hiện
có
của
EU
liên
quan
đến
ngành
công
nghiệp
của
Anh
đã
được
chuyển
đổi
khi
Anh
rời
Liên
minh
Hải
quan
EU.
11
trong
số
các
đánh
giá
chuyển
đổi
này
hiện
đang
tồn
tại,
bao
gồm
các
sản
phẩm
từ
nhiều
lĩnh
vực,
bao
gồm
thép,
thủy
sản
và
dầu
diesel
sinh
học.
Kể
từ
ngày
1
tháng
1
năm
nay,
các
nhà
sản
xuất
của
Anh
cũng
đã
có
thể
nộp
đơn
yêu
cầu
điều
tra
về
sự
cần
thiết
của
các
biện
pháp
phòng
vệ
thương
mại
mới.
Tất
cả
các
đơn
đăng
ký
có
thể
được
thực
hiện
thông
qua
nền
tảng
quản
lý
hồ
sơ
trực
tuyến
của
TRA,
Dịch
vụ
Phòng
vệ
Thương
mại.
TRA
là
tổ
chức
đầu
tiên
thuộc
loại
này
trên
thế
giới
cung
cấp
dịch
vụ
kỹ
thuật
số
cho
các
trường
hợp
phòng
vệ
thương
mại.
Giám
đốc
điều
hành
của
Cơ
quan
Phòng
vệ
thương
mại
–
Oliver
Griffiths
–
cho
biết,
việc
chính
thức
ra
mắt
TRA
ngày
1/6
là
một
thời
điểm
quan
trọng
đối
với
chính
sách
thương
mại
của
Vương
quốc
Anh.
TRA
sẽ
dành
riêng
để
bảo
vệ
các
lợi
ích
kinh
tế
của
Anh
trước
các
thực
tiễn
thương
mại
quốc
tế
không
công
bằng,
đưa
ra
các
khuyến
nghị
độc
lập,
dựa
trên
dữ
liệu
cho
Chính
phủ.
Bộ
trưởng
Thương
mại
Quốc
tế
–
Ranil
Jayawardena
–
cho
biết,
hệ
thống
phòng
vệ
thương
mại
độc
lập
mới
của
Anh
sẽ
giúp
bảo
vệ
các
ngành
công
nghiệp
quan
trọng
của
Anh
như
nhà
sản
xuất
thép
và
nhà
sản
xuất
gốm
sứ
khỏi
các
hoạt
động
thương
mại
toàn
cầu
có
hại.
TRA
sẽ
giúp
tạo
ra
một
sân
chơi
bình
đẳng
cho
các
doanh
nghiệp
Anh
để
họ
có
thể
cạnh
tranh
với
các
nhà
sản
xuất
nước
ngoài,
bảo
vệ
họ
khỏi
các
hành
vi
thương
mại
không
công
bằng
và
sự
gia
tăng
không
lường
trước
được
trong
nhập
khẩu.
Hệ
thống
phòng
vệ
thương
mại
của
Vương
quốc
Anh
đã
được
thiết
kế
dựa
trên
bốn
nguyên
tắc:
tương
xứng,
minh
bạch,
công
bằng
và
hiệu
quả.
5/
Vượt
rào
cản
phòng
vệ
thương
mại
trong
đại
dịch
Chủ
động
mạnh
mẽ
Theo
thống
kê,
năm
2013
có
tới
16%
doanh
nghiệp
được
khảo
sát
không
biết
thông
tin
về
PVTM,
19,8%
có
tìm
hiểu
sơ
qua,
gần
65%
có
nghe
nói
nhưng
không
hiểu
và
chỉ
có
gần
2%
là
đã
tìm
hiểu
kỹ
và
đã
từng
tham
gia
vụ
việc.
Đến
năm
2019
chỉ
còn
11%
doanh
nghiệp
không
biết;
36%
có
nghe
nhưng
không
hiểu
sâu;
36%
đã
tìm
hiểu
về
biện
pháp
và
17%
đã
tìm
hiểu
kỹ
và
là
bên
liên
quan.
Kinh
tế
thế
giới
vẫn
gặp
nhiều
khó
khăn
do
dịch
Covid-19,
số
lượng
các
vụ
việc
điều
tra
PVTM
ở
cả
hai
chiều
xuất
khẩu
và
nhập
khẩu
của
Việt
Nam
dự
kiến
cũng
sẽ
lớn
hơn
trong
giai
đoạn
sắp
tới.
Các
biện
pháp
PVTM
là
một
thực
tế
phổ
biến
trên
thế
giới,
nhất
là
các
doanh
nghiệp,
nhiều
khả
năng
sẽ
phải
đối
diện.
Điều
này
sẽ
khiến
các
ngành
hàng
sản
xuất
trong
nước
đứng
trước
những
thách
thức,
khó
khăn
mới,
nhất
là
khi
thực
hiện
các
cam
kết
từ
nhiều
FTA
quan
trọng
như
Hiệp
định
Thương
mại
tự
do
Việt
Nam
–
EU
(EVFTA),
Hiệp
định
Đối
tác
toàn
diện
và
tiến
bộ
xuyên
Thái
Bình
Dương
(CPTPP),
Hiệp
định
Đối
tác
kinh
tế
toàn
diện
Khu
vực
(RCEP).
Vì
vậy,
ông
Lê
Triệu
Dũng
–
Cục
trưởng
Cục
PVTM
–
khuyến
nghị,
doanh
nghiệp
phải
có
nhận
thức
về
các
biện
pháp
PVTM
và
nâng
cao
qua
việc
tìm
hiểu
kỹ
quy
định
về
PVTM
của
các
nước
nhập
khẩu,
nhất
là
các
thị
trường
lớn
như
Hoa
Kỳ,
Canada,
Liên
minh
châu
Âu…
và
thậm
chí
cả
các
nước
ASEAN.
Các
doanh
nghiệp
cần
tính
tới
các
phương
án
dự
phòng
trong
chiến
lược
phát
triển
sản
xuất
và
xuất
khẩu
để
ứng
phó
với
PVTM
từ
các
nước
nhập
khẩu.
Điển
hình
phải
kể
đến
các
doanh
nghiệp
ngành
thép.
Theo
ông
Nghiêm
Xuân
Đa
–
Chủ
tịch
Hiệp
hội
Thép
Việt
Nam,
thép
Hòa
Phát
là
đơn
vị
luôn
chủ
động
phối
hợp
với
cơ
quan
điều
tra
trong
việc
trả
lời
và
cung
cấp
đầy
đủ
thông
tin,
tài
liệu
theo
yêu
cầu,
phản
biện
các
lập
luận
của
nguyên
đơn;
đồng
thời,
doanh
nghiệp
này
đặc
biệt
chủ
động
áp
dụng
công
nghệ
trong
sản
xuất
để
nâng
cao
chất
lượng
sản
phẩm,
rõ
ràng
về
xuất
xứ
điều
này
giúp
tập
đoàn
nâng
năng
lực
cạnh
tranh
và
giảm
thiểu
việc
“dính”
tới
những
cáo
buộc
lẩn
tránh
thuế,
chống
bán
phá
giá
từ
các
thị
trường
xuất
khẩu. “Sự
chủ
động
của
doanh
nghiệp
là
rất
quan
trọng,
ngoài
chủ
động
trong
nhận
thức
về
nguy
cơ
bị
khiếu
kiện,
điều
tra,
doanh
nghiệp
cần
chủ
động
phối
hợp
với
các
cơ
quan
chức
năng
để
ngăn
chặn
hành
vi
gian
lận
thương
mại”
–
ông
Đa
cho
hay.
Ngoài
ra,
doanh
nghiệp
không
tham
gia,
tiếp
tay
cho
các
hành
vi
gian
lận
xuất
xứ,
chuyển
tải
bất
hợp
pháp.
Bởi
nếu
phát
hiện
các
hành
vi
này,
nước
nhập
khẩu
sẽ
áp
dụng
chế
tài
“trừng
phạt”
rất
nặng,
trong
nhiều
trường
hợp
doanh
nghiệp
sẽ
mất
toàn
bộ
thị
trường
xuất
khẩu
liên
quan.
Nhằm
bảo
vệ
nền
sản
xuất
trong
nước
cũng
như
tạo
đà
cho
xuất
khẩu
bền
vững,
Bộ
Công
Thương
đã
ban
hành
Quyết
định
số
2074/QĐ-BCT
về
Chương
trình
hành
động
thực
hiện
Quyết
định
số
316/QĐ-TTg
của
Thủ
tướng
Chính
phủ
phê
duyệt
Đề
án
“Xây
dựng
và
vận
hành
hiệu
quả
Hệ
thống
cảnh
báo
sớm
về
phòng
vệ
thương
mại”
để
hỗ
trợ
doanh
nghiệp
trong
việc
chủ
động
sử
dụng
biện
pháp
PVTM
cũng
như
ứng
phó
kịp
thời
với
các
biện
pháp
PVTM
do
nước
ngoài
áp
dụng.
Hiện
tại,
theo
Cục
PVTM,
việc
thực
hiện
về
cảnh
báo
sớm
đối
với
nhiều
ngành
hàng,
sản
phẩm
có
nguy
cơ
bị
kiện
PVTM
tại
nhiều
thị
trường
khác
nhau
đang
được
các
đơn
vị
của
Bộ
Công
Thương,
trong
đó
có
Cục
PVTM
cập
nhật
danh
sách
ngành
hàng,
sản
phẩm
và
có
các
điều
chỉnh
xuất
khẩu
phù
hợp
để
hạn
chế
bị
kiện
trên
trang
web www.trav.gov.vn.
Cùng
với
đó,
Bộ
Công
Thương
sẽ
tiếp
tục
đẩy
nhanh
hoàn
thành
các
vụ
việc
điều
tra
PVTM
đang
diễn
ra
nhằm
kịp
thời
có
các
biện
pháp
để
bảo
vệ
ngành
sản
xuất
trong
nước.
Hội
thảo
do
Viện
Chiến
lược
Chính
sách
tài
nguyên
và
môi
trường
(Bộ
Tài
nguyên
và
Môi
trường)
phối
hợp
với
Viện
Ngân
hàng
Phát
triển
châu
Á
(ADBI)
và
Quỹ
Phát
triển
Đổi
mới
sáng
tạo
Phần
Lan
(SITRA)
tổ
chức.
Đây
là
hội
thảo
bên
lề
cấp
khu
vực
của
Diễn
đàn
Kinh
tế
tuần
hoàn
thế
giới
nhằm
giới
thiệu
các
tài
liệu
chính
sách,
xem
xét
các
nghiên
cứu
điển
hình
về
việc
thực
hiện
thành
công
kinh
tế
tuần
hoàn;
các
nguyên
tắc
và
khuyến
nghị
liên
quan,
tập
trung
vào phục
hồi
xanh và
tăng
trưởng
kinh
tế
sau
đại
dịch
COVID-19.
Tại
phiên
thảo
luận
có
chủ
đề
“Từ
tuyến
tính
tới
tuần
hoàn-điều
gì
sẽ
xảy
ra?,”
Bộ
trưởng
Trần
Hồng
Hà
cho
biết
đại
dịch
COVID-19
diễn
biến
phức
tạp
đã
tác
động
đến
mọi
mặt
của
đời
sống
kinh
tế-xã
hội
toàn
cầu,
thay
đổi
nhận
thức
của
người
dân
trên
toàn
thế
giới,
càng
làm
sâu
sắc
thêm
yêu
cầu
về
thay
đổi
mô
hình
tăng
trưởng
hướng
đến
phát
triển
bền
vững.
Chuyển
dịch
kinh
tế
theo
hướng
kinh
tế
tuần
hoàn,
kinh
tế
xanh,
kinh
tế
phát
thải
carbon
thấp
là
xu
thế
tất
yếu
của
thời
đại,
được
đồng
thuận
toàn
cầu
và
được
các
nước
trên
thế
giới
coi
là
cuộc
cách
mạng
công
nghiệp
xanh
của
thế
kỷ
21.
Việt
Nam
đã
thể
chế
hóa
kinh
tế
tuần
hoàn
vào
Luật
Bảo
vệ
môi
trường.
Mục
tiêu
của
Việt
Nam
khi
chuyển
dịch
từ
nền
kinh
tế
tuyến
tính
sang
nền
kinh
tế
tuần
hoàn
tập
trung
vào
3
trụ
cột:
thiết
kế,
kéo
dài
vòng
đời
vật
liệu;
giảm
rác
thải,
phát
thải;
khôi
phục
hệ
sinh
thái.
Đối
với
mục
tiêu
thiết
kế,
kéo
dài
vòng
đời
vật
liệu,
Việt
Nam
tập
trung
vào
thiết
kế
sản
phẩm
và
quy
trình
công
nghệ
tạo
ra
sản
phẩm
nhằm
hạn
chế
tối
đa
khai
thác
nguyên
liệu
thô,
á
kim,
phi
kim,
năng
lượng,
nhiên
liệu
hóa
thạch,
sinh
khối;
đồng
thời
loại
bỏ
chất
thải
và
chất
ô
nhiễm
trong
toàn
bộ
chuỗi
cung
ứng
sản
phẩm
từ
thiết
kế,
khai
thác,
chế
biến,
sản
xuất,
phân
phối,
tiêu
dùng,
thu
gom,
phân
loại,
xử
lý
chất
thải,
và
khai
thác
lại
chất
thải.
Thiết
kế
được
các
nhà
khoa
học
trên
thế
giới
đánh
giá
quyết
định
80%
chất
thải
tạo
ra
trong
nền
kinh
tế,
do
đó,
Việt
Nam
cho
rằng
đây
là
khâu
đột
phá
quyết
định.
Đối
với
mục
tiêu
giảm
rác
thải,
phát
thải,
Việt
Nam
hướng
tới
giữ
cho
các
sản
phẩm
và
vật
liệu
được
lưu
dùng
tối
đa
trong
nền
kinh
tế
thông
qua
chiến
lược
9R
(từ
chối,
tiết
giảm,
tái
phân
phối/tái
sử
dụng,
tu
sửa,
tân
trang,
tái
sản
xuất,
thay
đổi
mục
đích,
tái
chế,
thu
hồi
năng
lượng
và
tái
khai
thác
rác
thải).
Với
mục
tiêu
khôi
phục
hệ
sinh
thái,
Việt
Nam
hướng
tới
thúc
đẩy
tái
tạo
và
khôi
phục
các
hệ
sinh
thái
tự
nhiên.
Khi
thực
hiện
kinh
tế
tuần
hoàn,
Việt
Nam
không
chỉ
hướng
tới
mục
tiêu
giảm
thiểu
khai
thác
nguyên
liệu
thô,
nhiên
liệu
hóa
thạch,
rừng
nguyên
sinh,
nguồn
nước
tự
nhiên
và
giảm
thiểu
rác
thải,
phát
thải
khí
nhà
kính,
giảm
thiểu
chôn
rác
và
đốt
rác
không
thu
hồi
năng
lượng…
mà
còn
đặt
mục
tiêu
tái
tạo
hệ
sinh
thái
tự
nhiên,
bảo
vệ,
bảo
tồn
và
phát
triển
vốn
tự
nhiên
đất,
nước,
rừng,
biển
và
đa
dạng
sinh
học,
bảo
vệ
sinh
vật
sống
trên
cạn,
dưới
nước.
Đây
cũng
là
mục
tiêu
của
Liên
hợp
quốc
và
Chương
trình
Môi
trường
Liên
hợp
quốc
thực
hiện
một
Thập
kỷ
Phục
hồi
hệ
sinh
thái
từ
2021
tới
2030,
được
phát
động
trong
tháng
6,
nhân
ngày
Môi
trường
thế
giới
5/6.
Theo
Bộ
trưởng
Trần
Hồng
Hà,
để
chuyển
đổi
thành
công
sang
mô
hình kinh
tế
tuần
hoàn,
cần
có
sự
tham
gia
của
tất
cả
các
bên
liên
quan
từ
các
cơ
quan
chính
phủ,
các
doanh
nghiệp
khai
thác
khoáng
sản
và
nguyên
liệu
thô,
các
nhà
chế
biến,
sản
xuất,
phân
phối,
bán
lẻ,
người
tiêu
dùng,
người
thu
gom
rác…
Bộ
trưởng
Trần
Hồng
Hà
cho
biết
hiện
nay,
theo
quy
định
của
Luật
Bảo
vệ
môi
trường
2020,
Bộ
Tài
nguyên
và
Môi
trường
đang
chủ
trì,
phối
hợp
với
các
cơ
quan
có
liên
quan
xây
dựng
quy
định
về
“tiêu
chí,
lộ
trình
và
cơ
chế
khuyến
khích
áp
dụng
kinh
tế
tuần
hoàn
ở
Việt
Nam.”
Vai
trò,
trách
nhiệm
của
các
bộ,
ngành
và
địa
phương
hiện
đã
được
quy
định
rõ
trong
Luật,
gắn
với
lộ
trình
triển
khai,
thực
hiện
kinh
tế
tuần
hoàn
ở
Việt
Nam.
Bộ
Tài
chính
đang
phối
hợp
với Bộ
Tài
nguyên
và
Môi
trường trong
việc
tái
cơ
cấu
lại
hệ
thống
các
công
cụ
kinh
tế,
tài
chính
trong
lĩnh
vực
tài
nguyên
và
môi
trường,
đảm
bảo
đồng
bộ,
thống
nhất
và
an
ninh,
an
toàn
tài
chính
quốc
gia;
phù
hợp
với
điều
kiện
kinh
tế-xã
hội
và
yêu
cầu
bảo
vệ
môi
trường
ở
từng
giai
đoạn
của
Việt
Nam.
Những
công
cụ
tài
chính
có
vai
trò
quan
trọng
trong
chuyển
đổi
sang
kinh
tế
tuần
hoàn
cần
được
phối
hợp
giữa
hai
bộ
để
hoàn
thiện
như
thuế,
phí
bảo
vệ
môi
trường;
chính
sách
ưu
đãi,
hỗ
trợ
cho
hoạt
động
bảo
vệ
môi
trường,
tái
chế,
tái
sử
dụng
chất
thải
trong
nền
kinh
tế;
chính
sách
về
tín
dụng
xanh,
trái
phiếu
xanh;
chính
sách
về
điều
hành
giá
của
nhà
nước…
Về
chuyển
đổi
số,
Bộ
Tài
nguyên
và
Môi
trường
đang
phối
hợp
cùng
Bộ
Thông
tin
và
Truyền
thông,
các
bộ,
ngành
để
xây
dựng
hệ
thống
thông
tin
và
cơ
sở
dữ
liệu
ngành
tài
nguyên
môi
trường
để
thực
hiện
Chương
trình
chuyển
đổi
số
quốc
gia,
triển
khai
Chính
phủ
điện
tử.
“Chúng
tôi
đặt
trọng
tâm
vào
hạch
toán
và
quản
lý
vốn
tự
nhiên
đất,
nước,
rừng,
biển
và
đa
dạng
sinh
học
theo
khối
lượng,
số
lượng;
giá
trị
kinh
tế,
tiền
tệ;
phân
bổ
nguồn
lực
theo
không
gian,
quy
hoạch,
định
hướng
sử
dụng
tài
nguyên,
bảo
vệ
môi
trường,
ứng
phó
biến
đổi
khí
hậu
theo
mô
hình
kinh
tế
tuần
hoàn,
tiết
giảm
tối
đa
nguyên
liệu
thô,
giảm
thiểu
rác
thải,
phát
thải,
chôn
lấp
rác
thải,
đốt
rác
không
thu
hồi
năng
lượng
và
thúc
đẩy
tái
tạo
hệ
sinh
thái
tự
nhiên,”
Bộ
trưởng
Trần
Hồng
Hà
khẳng
định.
7/
Tăng
cường
hợp
tác
Việt
Nam
–
Hàn
Quốc
trong
thương
mại,
công
nghiệp
và
năng
lượng
Trong
4
tháng
đầu
năm
2021,
kim
ngạch
xuất
nhập
khẩu
của
Việt
Nam
–
Hàn
Quốc
đạt
23,7
tỷ
USD,
tăng
15,1%
so
với
cùng
kỳ
năm
2020.
Trong
đó,
kim
ngạch
xuất
khẩu
của
Việt
Nam
sang
Hàn
Quốc
đạt
7,1
tỷ
USD,
tăng
14,3%,
kim
ngạch
nhập
khẩu
của
Việt
Nam
từ
Hàn
Quốc
đạt
16,6
tỷ
USD,
tăng
15,4%
so
với
cùng
kỳ
năm
2020.
Việt
Nam
nhập
siêu
từ
Hàn
Quốc
khoảng
9,5
tỷ
USD,
tăng
9,3%
so
với
cùng
kì
năm
2020.
Hàn
Quốc
là
nhà
đầu
tư
nước
ngoài
lớn
nhất
tại
Việt
Nam.
Tính
lũy
kế
đến
20/5/2021,
Hàn
Quốc
có
9.076
dự
án
đầu
tư
tại
Việt
Nam
với
tổng
số
vốn
đăng
ký
đạt
gần
72
tỷ
USD.
Nhận
định
đại
dịch
Covid-19
tiếp
tục
diễn
biến
phức
tạp,
gây
nhiều
khó
khăn
đến
quan
hệ
hợp
tác
kinh
tế
–
thương
mại
song
phương,
Bộ
trưởng
Nguyễn
Hồng
Diên
và
Đại
sứ
Park
Noh-wan
đã
dành
phần
lớn
thời
gian
trao
đổi,
thảo
luận
để
đưa
ra
các
giải
pháp
tháo
gỡ,
thúc
đẩy
hợp
tác
thương
mại,
công
nghiệp,
năng
lượng
giữa
hai
Bên
trong
thời
gian
tới.
Hai
Bên
nhất
trí
tiếp
tục
hợp
tác
chặt
chẽ,
phát
huy
tối
đa
hiệu
quả
các
cơ
chế
hợp
tác
song
phương
để
triển
khai
các
nhiệm
vụ
cụ
thể
như:
ứng
phó
với
đại
dịch
Covid-19;
triển
khai
chương
trình
hành
động
thực
hiện
mục
tiêu
thương
mại
song
phương
100
tỷ
USD
vào
năm
2023;
thúc
đẩy
kết
nối
chuỗi
cung
ứng
Việt
Nam-Hàn
Quốc;
tăng
cường
hợp
tác
trong
lĩnh
vực
năng
lượng;
đẩy
mạnh
hoạt
động
của
Trung
tâm
Tư
vấn
và
Giải
pháp
công
nghệ
Việt
Nam-Hàn
Quốc;
tổ
chức
định
kỳ
Đối
thoại
giữa
Bộ
trưởng
Công
Thương
Việt
Nam
với
doanh
nghiệp
Hàn
Quốc.
Bộ
trưởng
Nguyễn
Hồng
Diên
chia
sẻ
với
các
khó
khăn
trong
nhập
cảnh
của
chuyên
gia,
nhân
sự
chất
lượng
cao
phục
vụ
các
dự
án
FDI
Hàn
Quốc,
khó
khăn
trong
việc
di
chuyển
lao
động
phục
vụ
các
dự
án
FDI
Hàn
Quốc
tại
các
tỉnh
Bắc
Giang,
Bắc
Ninh,
Vĩnh
Phúc,
Thái
Nguyên
trong
bối
cảnh
dịch
Covid-19.
Bộ
trưởng
cũng
nhấn
mạnh
rằng
các
khó
khăn
trên
chỉ
là
tạm
thời
trong
lúc
các
địa
phương
nói
trên
siết
chặt
các
biện
pháp
phòng
dịch
Covid-19.
Thực
tế
cho
thấy
chống
dịch
trong
cộng
đồng
và
chống
dịch
trong
khu
công
nghiệp
có
quan
hệ
mật
thiết
với
nhau.
Phòng
dịch
phải
đi
trước
một
bước.
Chính
vì
vậy,
Bộ
trưởng
đề
nghị
Đại
sứ,
các
doanh
nghiệp
Hàn
Quốc
thông
cảm,
ủng
hộ
các
biện
pháp
phòng
dịch
của
các
tỉnh
nói
trên
để
ngăn
chặn
nguồn
lây
Covid-19
từ
tỉnh
này
sang
tỉnh
kia,
từ
khu
công
nghiệp
ra
cộng
đồng
và
từ
cộng
đồng
vào
khu
công
nghiệp.
Để
đảm
bảo
sản
xuất
của
các
doanh
nghiệp
FDI
Hàn
Quốc
an
toàn,
không
gián
đoạn
cũng
như
đóng
góp
đảm
bảo
an
toàn
và
sức
khỏe
người
dân,
Bộ
trưởng
Nguyễn
Hồng
Diên
đề
nghị
Đại
sứ
Hàn
Quốc
và
đặc
biệt
là
Tập
đoàn
Samsung,
Tập
đoàn
SK
(đã
ký
hợp
đồng
sản
xuất
vaccine
tại
Hàn
Quốc
với
Tập
đoàn
Moderna
và
Tập
đoàn
Novanax)
hỗ
trợ
Việt
Nam
trong
việc
tiếp
cận
các
nguồn
vắc
xin
để
thực
hiện
mục
tiêu
tiêm
vắc
xin
Covid-19
trên
diện
rộng,
đặc
biệt
là
việc
tiêm
vắc
xin
cho
các
công
nhân,
người
lao
động
tại
các
nhà
máy,
khu
công
nghiệp
có
doanh
nghiệp
FDI
Hàn
Quốc.
Đại
sứ
Park
Noh-wan
và
đại
diện
các
doanh
nghiệp
Hàn
Quốc
nhất
trí
với
chia
sẻ
và
đề
nghị
của
Bộ
trưởng
Nguyễn
Hồng
Diên,
khẳng
định
sẽ
cố
gắng
hết
mình
đóng
góp
tạo
nguồn
cung
vaccine
cho
Việt
Nam
thực
hiện
hiệu
quả
“mục
tiêu
kép”
vừa
phòng,
chống
dịch
bệnh,
bảo
vệ
sức
khoẻ
nhân
dân,
vừa
phục
hồi
và
phát
triển
kinh
tế
–
xã
hội
trong
trạng
thái
bình
thường
mới.
8/
Ngành
dệt
may
‘báo
động
đỏ’,
chủ
động
với
đại
dịch
Covid-19
Doanh
nghiệp
“căng
mình”
chống
dịch
Chủ
tịch
Hiệp
hội
Dệt
may
Việt
Nam
Vũ
Đức
Giang
cho
hay,
tình
hình
Covid-19
trên
thế
giới,
châu
Á
và
tại
Việt
Nam
đang
trở
nên
nghiêm
trọng,
đặc
biệt
tại
các
khu
công
nghiệp.
Đây
thực
sự
là
mối
lo
lớn,
ảnh
hưởng
sâu
sắc
đến
sự
tồn
tại
của
các
doanh
nghiệp
và
việc
làm,
đời
sống
người
lao
động,
đặc
biệt
với
các
doanh
nghiệp
sử
dụng
nhiều
lao
động.
Dệt
may
Việt
Nam
hiện
cũng
là
ngành
có
lực
lượng
lao
động
lớn
với
gần
3
triệu
người,
góp
phần
đảm
bảo
an
sinh
xã
hội,
có
đóng
góp
quan
trọng
về
kim
ngạch
xuất
khẩu.
Năm
2021,
dự
kiến
ngành
Dệt
may
sẽ
xuất
khẩu
khoảng
40
tỷ
USD.
Có
những
doanh
nghiệp
sử
dụng
hàng
vạn
người
tập
trung
với
mật
độ
cao.
Ông
Vũ
Đức
Giang
cho
biết,
hiện
nay,
các
doanh
nghiệp
trong
ngành
đã
ký
kết
đơn
hàng,
nhiều
doanh
nghiệp
đã
ký
đến
hết
năm,
nếu
không
sản
xuất,
giao
hàng
đúng
hạn
sẽ
bị
phạt,
hủy
đơn
hàng,
thiệt
hại
toàn
ngành
có
thể
lên
tới
hàng
tỷ
USD
và
ảnh
hưởng
nghiêm
trọng
đến
uy
tín
của
Việt
Nam.
“Các
đơn
hàng
ngành
dệt
may
đang
có
sự
phục
hồi
khá
nhưng
nếu
phát
sinh
phải
cách
ly
thì
không
chỉ
không
có
tăng
trưởng
mà
còn
có
nguy
cơ
phải
chịu
phạt
hợp
đồng.
Đây
là
thách
thức
và
rủi
ro
vô
cùng
lớn,
là
nguy
cơ
với
tất
cả
các
doanh
nghiệp
dệt
may”.
– Chủ
tịch
Hội
đồng
quản
trị
Tập
đoàn
Dệt
may
Việt
Nam
(Vinatex)
Lê
Tiến
Trường.
Song
song
với
đó,
tạo
điều
kiện
vận
động
các
kênh
đối
tác,
các
tổ
chức
quốc
tế,
các
nhãn
hàng
cùng
phối
hợp
hành
động
để
mang
nguồn
vaccine
về
cho
Việt
Nam
trên
cơ
chế
doanh
nghiệp
cùng
tham
gia
đóng
góp.
Tổng
Giám
đốc
Tổng
Công
ty
May
10
Thân
Đức
Việt
cho
rằng,
đặc
thù
của
ngành
may
mặc
và
cụ
thể
là
May
10
là
sử
dụng
nhiều
lao
động.
Tổng
cộng
12.000
lao
động
làm
tại
18
nhà
máy
ở
nhiều
tỉnh,
thành
phố,
đây
là
vấn
đề
khó
khăn
khi
phải
thực
hiện
mục
tiêu
kép
vừa
phòng
chống
dịch
vừa
thúc
đẩy
sản
xuất
kinh
doanh.
Chỉ
cần
có
1
ca
nhiễm
sẽ
ảnh
hưởng
toàn
bộ
dây
chuyền
và
phải
đóng
cửa
nhà
máy.
Tổng
Giám
đốc
May
10
nhấn
mạnh:
“Đợt
dịch
lần
4
này
là
lần
bùng
phát
có
nguy
cơ
ảnh
hưởng
lớn
sâu
rộng
tới
hoạt
động
sản
xuất
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp
và
nguy
cơ
sức
khoẻ
người
lao
động.
Chúng
tôi
đã
phải
căng
mình
chống
dịch
từ
6
giờ
sáng
đến
24
giờ
đêm,
theo
dõi
trên
tất
cả
các
phòng,
ban
chống
dịch,
xây
dựng
tổ
phòng
chống
Covid-19
ngau
tại
Công
ty”.
Không
chỉ
thế,
doanh
nghiệp
làm
rất
nghiêm
túc
khâu
rà
soát,
truy
vết,
khoanh
vùng
người
lao
động
có
tiếp
xúc
hoặc
ở
gần
bán
kính
ca
nhiễm
F0,
F1,
làm
triệt
để,
kiên
quyết,
yêu
cầu
cách
ly
F2
và
thậm
chí
là
F3
tại
nhà.
Cùng
với
đó
là
các
biện
pháp
như
khử
khuẩn,
đo
nhiệt
độ,
thực
hiện
đầy
đủ
5K
đối
với
người
lao
động
từ
cổng
vào,
ngăn
nguồn
lây…
Các
bàn
ăn
đều
sử
dụng
vách
ngăn
và
giới
hạn
số
người
từ
6
thành
4,
mỗi
người
1
buồng,
trên
bàn
thì
có
poster
tuyên
truyền
để
người
lao
động
khi
ăn
dù
chỉ
5
phút
cũng
nhìn
vào
đó
để
thực
hiện.
Tập
trung
cao
độ
thực
hiện
mục
tiêu
kép
Thực
hiện
Nghị
quyết
số
84/NQ-CP
ngày
29/5/2020
của
Chính
phủ
về
các
nhiệm
vụ,
giải
pháp
tiếp
tục
tháo
gỡ
khó
khăn
cho
sản
xuất
kinh
doanh,
để
ứng
phó
với
dịch
Covid-19,
các
doanh
nghiệp
ngành
dệt
may
đang
tập
trung
cao
độ
thực
hiện
mục
tiêu
kép,
vừa
phòng
chống
dịch,
vừa
đảm
bảo
đơn
hàng
cho
đối
tác.
Chia
sẻ
với TG&VN,
bà
Nguyễn
Thị
Hồng
Gấm,
Giám
đốc
một
Công
ty
May
Xuất
khẩu
có
trụ
sở
tại
Thái
Bình
cho
biết,
ngay
khi
làn
sóng
Covid-19
mới
xuất
hiện,
công
ty
đã
sớm
khởi
động
lại
các
chương
trình
phòng
chống
dịch
ở
mức
cao,
lưu
trữ
thông
tin,
tổ
chức
khai
báo
y
tế
đối
với
tất
cả
cán
bộ
công
nhân
viên,
cũng
như
khách
ra
vào.
Hàng
ngày,
công
ty
thống
kê
các
địa
điểm
có
ca
F0,
yêu
cầu
công
nhân
viên
khai
báo
y
tế.
Trong
quá
trình
khai
báo,
nếu
phát
hiện
ra
các
trường
hợp
F1,
F2
thì
lập
tức
phối
hợp
với
địa
phương
để
có
phương
án
cho
từng
trường
hợp
cụ
thể.
Bà
Nguyễn
Thị
Hồng
Gấm
chia
sẻ,
công
ty
đã
trang
bị
đầy
đủ
cho
người
lao
động
các
trang
thiết
bị
cần
thiết
để
phòng
chống
dịch
như
cồn
sát
khuẩn,
đeo
khẩu
trang
y
tế…
đồng
thời,
liên
tục
tuyên
truyền
về
thực
hiện
các
biện
pháp
phòng
chống
dịch,
thực
hiện
nghiêm
túc
quy
tắc
5K.
“Chúng
tôi
luôn
sát
sao
trong
việc
nhắc
nhở
người
lao
động
tuân
thủ
nguyên
tắc
phòng
dịch.
Công
ty
cũng
có
chế
tài
xử
phạt
người
lao
động
không
tuân
thủ
quy
định
phòng
dịch,
nhẹ
thì
nhắc
nhở,
phạt
tiền,
nặng
hơn
thì
khiển
trách
cảnh
cáo.
Chúng
tôi
quyết
tâm
vượt
qua
đại
dịch
lần
này,
đảm
bảo
sức
khỏe
cho
công
nhân
viên
và
đảm
bảo
tiến
độ
sản
xuất
của
công
ty”,
bà
Gấm
nói.
Vẫn
cần
giải
pháp
hỗ
trợ
từ
Chính
phủ
Không
chỉ
thế,
hiện
nay,
nhiều
doanh
nghiệp
dệt
may
đã
ký
đơn
hàng
đến
hết
năm.
Nếu
không
sản
xuất,
giao
hàng
đúng
hạn
doanh
nghiệp
sẽ
bị
phạt,
hủy
đơn
hàng,
thiệt
hại
toàn
ngành
có
thể
lên
tới
hàng
tỷ
USD
và
ảnh
hưởng
nghiêm
trọng
đến
uy
tín
của
Việt
Nam.
Ngoài
giảm
thuế,
lùi
thời
gian
nộp
tiền
đất
cho
doanh
nghiệp,
cần
đổi
mới
thêm
các
chính
sách,
luật
đất
đai.
Nhiều
nhóm
đầu
tư
rút
từ
Trung
Quốc
hay
nước
khác
vào
Việt
Nam
rất
cần
đất
đai,
đầu
tư
thêm
công
nghệ…
cần
tạo
chính
sách
thuận
lợi
cho
họ
để
tạo
đòn
bẩy
cho
doanh
nghiệp
trong
nước.
Phó
Tổng
Giám
đốc
Tập
đoàn
Dệt
May
Việt
Nam
(Vinatex)
Cao
Hữu
Hiếu
nhận
định,
3
đợt
dịch
trước
đã
tạo
cho
các
doanh
nghiệp
tính
thích
ứng
cao,
luôn
luôn
cảnh
giác
và
thường
trực
giải
pháp,
cũng
như
rèn
cho
người
lao
động
thói
quen
mới
trong
thời
đại
dịch.
Tuy
nhiên,
doanh
nghiệp
dệt
may
vẫn
cần
những
giải
pháp
hỗ
trợ
từ
Chính
phủ.
9/
Phòng
vệ
thương
mại:
gỗ
Việt
Nam
cần
minh
bạch
từ
nguồn
Mặt
hàng
gỗ
của
Việt
Nam
có
sự
tăng
trưởng
mạnh
khi
cuộc
chiến
thương
mại
giữa
hai
cường
quốc
Hoa
Kỳ-Trung
Quốc
xảy
ra.
Tuy
nhiên,
mặt
hàng
này
của
Việt
Nam
cũng
chịu
sức
ép
không
ít
khi
xuất
khẩu
sang
Hoa
Kỳ.
Đặc
biệt
từ
khi
Hoa
Kỳ
áp
dụng
các
biện
pháp phòng
vệ
thương
mại đối
với
một
số
sản
phẩm
gỗ
xuất
khẩu
của
Trung
Quốc.
Việc
kiểm
soát
này
khiến
một
số
doanh
nghiệp
Trung
Quốc
chuyến
hướng
đầu
tư
hoặc
tìm
các
biện
pháp
để
lẩn
tránh
mức
thuế
trên;
trong
đó
Việt
Nam
có
thể
được
chọn
là
một
trong
những
điểm
đến.
Ông
Trần
Lê
Huy,
Phó
Chủ
tịch
kiêm
Tổng
Thư
ký
Hiệp
hội
Gỗ
và
Lâm
sản
Bình
Định,
cho
rằng
cuộc
chiến
này
cũng
tạo
ra
những
rủi
ro
mới
cho
Việt
Nam,
đặc
biệt
là
rủi
ro
về
gian
lận
xuất
xứ.
Rủi
ro
này
xảy
ra
khi
các
mặt
hàng
của
Trung
Quốc
được
nhập
khẩu
vào
Việt
Nam
lấy
nhãn
mác,
xuất
xứ
sau
đó
được
xuất
khẩu
vào
Hoa
Kỳ.
Vì
vậy,
việc
ngăn
chặn
và
giải
quyết
gian
lận
thương
mại
kịp
thời,
hiệu
quả
có
tính
chất
sống
còn
với ngành
gỗ Việt.
Theo
Hiệp
hội
Gỗ
và
Lâm
sản
Việt
Nam,
các
doanh
nghiệp
hội
viên
phản
ánh,
thời
gian
gần
đây
có
một
số
doanh
nghiệp
đã
nhập
khẩu
bộ
phận,
chi
tiết
của
các
sản
phẩm
tủ
bếp,
tủ
nhà
tắm
là
những
mặt
hàng
rủi
ro
cao
từ
Trung
Quốc
về
Việt
Nam.
Doanh
nghiệp
núp
bóng
dưới
hình
thức
nhập
khẩu
mặt
hàng
bộ
phận
các
sản
phẩm
này
sau
đó
gia
công,
lắp
ráp
thành
sản
phẩm
hoàn
chỉnh;
hoặc
mua
bán
lòng
vòng
qua
các
công
ty
khác
nhau,
các
bộ
phận
mặt
hàng
này
sẽ
tập
hợp
lại
một
công
ty
và
công
ty
này
lắp
ráp,
lấy
danh
nghĩa
sản
phẩm
của
mình
sản
xuất
để
xuất
khẩu.
Để
đề
phòng,
ngăn
ngừa
tình
trạng
gian
lận,
lẩn
tránh
xuất
xứ
hàng
hóa
và
đặc
biệt
trong
bối
cảnh
Hoa
Kỳ
đang
điều
tra
mặt
hàng
gỗ
dán
Việt
Nam
lẩn
tránh
xuất
xứ,
ông
Đỗ
Xuân
Lập,
Chủ
tịch
Hiệp
hội
Gỗ
và
Lâm
sản
Việt
Nam,
cho
biết
hiệp
hội
đã
đề
nghị
các
bộ,
ngành
chỉ
đạo
các
cơ
quan
chuyên
môn
tổ
chức
thanh
tra,
kiểm
tra
đột
xuất
đối
với
các
doanh
nghiệp
có
dấu
hiệu
nghi
ngờ.
Việc
điều
tra
này
theo
ông
Đỗ
Xuân
Lập
là
nên
tập
trung
vào
các
doanh
nghiệp
nhập
khẩu
các
mặt
hàng
có
yếu
tố
rủi
ro
cao
mà
có
giá
trị
tăng
trưởng
nhanh
để
nếu
có
vi
phạm
thì
có
biện
pháp
ngăn
chặn
và
xử
lý
kịp
thời.
Hành
động
trên
không
chỉ
nhằm
tránh
gian
lận
khi
xuất
khẩu
sang thị
trường
Hoa
Kỳ mà
còn
tạo
sự
minh
bạch,
uy
tín
về
sản
phẩm
gỗ
Việt
Nam
với
nhiều
thị
trường
xuất
khẩu
lớn
khác
như
EU,
Nhật
Bản,
Hàn
Quốc…
Cùng
với
đó,
các
doanh
nghiệp
Việt
đã
cam
kết
tuân
thủ
chặt
chẽ
các
yêu
cầu
từ
các
thị
trường
nhập
khẩu
như
Quy
chế
gỗ
của
Liên
minh
châu
Âu
(EUTR
995/2010),
Luật
Lacey
của
Mỹ,
Luật
đảm
bảo
gỗ
hợp
pháp
của
Australia,
Hàn
Quốc,
Nhật
Bản…
Cũng
bởi
vậy,
để
kiểm
soát
nguồn
nguyên
liệu
nhập
khẩu
phục
vụ
chế
biến,
Việt
Nam
đã
xây
dựng
hệ
thống
pháp
lý
là
Nghị
định
102/2020-NĐ-CP
quy
định
Hệ
thống
bảo
đảm
gỗ
hợp
pháp
(Nghị
định
102).
Bởi,
bình
quân
mỗi
năm
Việt
Nam
nhập
khẩu
từ
2-2,5
triệu
m3
gỗ
quy
tròn
là
gỗ
nhiệt
đới
từ
châu
Phi,
một
số
quốc
gia
thuộc
khu
vực
Nam
Mỹ,
Lào,
Campuchia
và
Papua
New
Guinea,
tương
đương
từ
40-50%
trong
tổng
lượng
gỗ
tròn
và
xẻ
nhập
khẩu.
Ông
Tô
Xuân
Phúc,
đại
diện
tổ
chức
Forest
Trend
cũng
nhìn
nhận,
giảm
rủi
ro
trong
khâu
nhập
khẩu
gỗ
nhiệt
đới
không
những
giúp
duy
trì
ổn
định
thị
trường
xuất
khẩu
mà
còn
tạo
động
lực
mở
rộng
thị
trường.
Việc
giảm
rủi
ro
trong
khâu
nhập
khẩu
gỗ
nguyên
liệu
cần
thực
hiện
trên
cả
khía
cạnh
chính
sách
và
các
hoạt
động
thực
tiễn
trong
khâu
nhập
khẩu
và
tiêu
dùng
nội
địa.
Về
khía
cạnh
chính
sách,
siết
chặt
quản
lý
trong
khâu
nhập
khẩu
đối
với
nguồn
gỗ
rủi
ro
theo
Nghị
định
102.
Theo
ông
Bùi
Chính
Nghĩa,
Phó
Tổng
cục
trưởng
Tổng
cục
Lâm
nghiệp,
Hệ
thống
đảm
bảo
gỗ
hợp
pháp
này
nhằm
kiểm
soát
tính
hợp
pháp
của
gỗ
nhập
khẩu.
Gỗ
rủi
ro
nhập
khẩu
được
kiểm
soát
thông
qua
“bộ
lọc”
về
loài
rủi
ro
và
vùng
địa
lý
rủi
ro,
theo
đó
các
doanh
nghiệp
nhập
khẩu
gỗ
rủi
ro
vào
Việt
Nam
cần
đưa
ra
các
bằng
chứng
nhằm
minh
chứng
cho
tính
hợp
pháp
của
gỗ.
Bên
cạnh
đó,
các
doanh
nghiệp
cần
đưa
ra
các
biện
pháp
giảm
thiểu
rủi
ro.
Việc
triển
khai
Nghị
định
102
hy
vọng
sẽ
khắc
phục
được
những
rủi
ro
trong
nhập
khẩu
gỗ
nguyên
liệu.
Thực
hiện
Nghị
định
102,
Hiệp
hội
Gỗ
và
Lâm
sản
Việt
Nam
đề
nghị
các
bộ,
ngành
chỉ
đạo
các
cơ
quan
chuyên
môn
yêu
cầu
các
doanh
nghiệp
nhập
khẩu
ngoài
việc
nghiêm
chỉnh
chấp
hành
việc
hoàn
thiện
thông
tin
theo
quy
định,
cần
cung
cấp/khai
báo
bổ
sung
các
loại
giấy
tờ.
Cụ
thể
như
giấy
phép
khai
thác
của
đơn
vị
khai
thác,
hoặc
chứng
nhận
được
phép
khai
thác
lô
rừng
được
cấp
cho
đơn
vị
chủ
rừng;
giấy
chứng
nhận
đăng
ký
là
cơ
sở
chế
biến
gỗ;
giấy
phép
được
phép
xuất
khẩu;
chứng
từ
giải
trình
nguồn
gốc
gỗ
theo
thông
tin
“quốc
gia
nơi
khai
thác”
chứ
không
theo
hướng
quốc
gia
xuất
khẩu…
“Việc
làm
rõ
các
loại
giấy
tờ
bổ
sung
trong
hồ
sơ
nhập
khẩu
mà
doanh
nghiệp
cần
cung
cấp
cho
cơ
quan
chức
năng
giúp
doanh
nghiệp
dễ
thực
hiện
thống
nhất,
đồng
thời
nhằm
mục
tiêu
thực
hiện
Nghị
định
102
đạt
hiệu
quả
cao
nhất,”
ông
Đỗ
Xuân
Lập
khẳng
định.
Theo
các
doanh
nghiệp
chế
biến
gỗ,
đa
phần
các
đơn
vị
nhập
khẩu
sản
phẩm
đồ
gỗ
của
Việt
Nam
đều
yêu
cầu
sử
dụng
gỗ
từ
rừng
trồng
hoặc
gỗ
có
chứng
chỉ.
Vì
vậy,
trong
tương
lai,
Việt
Nam
cần
hướng
tới
mục
tiêu
100%
gỗ
nhập
khẩu
phải
có
chứng
chỉ
giống
như
một
số
thị
trường
nhập
khẩu
yêu
cầu
Việt
Nam
xuất
khẩu
gỗ
và
sản
phẩm
gỗ
phải
đảm
bảo
100%
là
gỗ
rừng
trồng
hoặc
từ
nguồn
gỗ
có
chứng
chỉ.
10/
40
tấn
vải
tươi
Việt
Nam
lên
đường
sang
Australia
Không
như
phần
lớn
các
quốc
gia
khác,
mặt
hàng
vải
tươi
tại
Australia
rất
cạnh
tranh
vì
nước
này
cũng
trồng
được
vải
và
quả
vải
Trung
Quốc
được
nhập
khẩu
rất
nhanh,
ngay
khi
vải
Việt
Nam
vào
chính
vụ.
4
tháng
đầu
năm
2021,
xuất
khẩu
rau
quả
từ
Việt
Nam
sang
Australia
đã
tăng
34,33%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước,
đạt
gần
25
triệu
USD.
Trước
đó,
để
góp
phần
quảng
bá
quả
vải
Việt
Nam,
Thương
vụ
Việt
Nam
tại
Australia
đã
tổ
chức
rất
nhiều
hoạt
động
xúc
tiến
thương
mại,
bao
gồm
quảng
cáo
giới
thiệu
vải
Việt
Nam
nói
chung
và
vải
Bắc
Giang
nói
riêng
tại
các
sự
kiện
thu
hút
đông
đảo
người
tiêu
dùng
xứ
sở
kangaroo.
Những
sự
kiện
này
nằm
trong
chuỗi
Chương
trình
xây
dựng
thương
hiệu
và
xúc
tiến
tiêu
thụ
quả
vải
tại
Australia
mà
Thương
vụ
đang
thực
hiện
thường
niên.
Tại
bang
New
South
Wale,
dưới
sự
vận
động
của
Thương
vụ,
Hiệp
hội
Doanh
nhân
người
Việt
tại
thành
phố
Sydney
đã
bày
tỏ
quyết
tâm
và
mong
muốn
sẽ
góp
phần
cùng
quảng
bá,
xúc
tiến
và
đặt
mua
khi
vải
tươi
được
phân
phối
đến
địa
phương.
Tại
hai
bang
Nam
Australia
và
Tây
Australia,
Công
ty
4wayfresh
hiện
đang
tích
cực
chuẩn
bị
phân
phối
ngay
khi
lô
hàng
vải
tươi
cập
bến.
Trưởng
cơ
quan
Thương
vụ
Nguyễn
Phú
Hòa
vui
mừng
cho
biết
với
tình
hình
chất
lượng
mùa
vải
tốt
của
năm
nay,
các
nhà
nhập
khẩu,
chủ
siêu
thị
và
các
cửa
hàng
nông
sản,
thực
phẩm
tại
Australia
đều
chắc
chắn
rằng
vải
của
Việt
Nam
sẽ
được
ưa
chuộng
và
sớm
“cháy
hàng”
ngay
khi
phân
phối.
Ông
Nguyễn
Phú
Hòa
cho
rằng,
xuất
khẩu
nông
sản
Việt
Nam
sang
Australia
không
chỉ
góp
phần
tăng
kim
ngạch
thương
mại
hàng
hóa,
mà
còn
khẳng
định
chất
lượng
nông
sản
Việt
Nam,
qua
đó
góp
phần
đoàn
kết
kiều
bào,
hướng
về
quê
hương.
11/
Đón
FTA,
doanh
nghiệp
đầu
tư
sản
xuất
nguyên
liệu
dệt
may
Đồng
thời,
mặc
dù
nằm
trong
top
3
những
quốc
gia
xuất
khẩu
dệt
may
hàng
đầu
thế
giới
nhưng
theo
các
chuyên
gia
ngành
này,
Nguyên
liệu
trong
nước
cho
ngành
may
lâu
nay
thường
chỉ
mới
đáp
ứng
20%
nhu
cầu
sản
xuất,
80%
còn
lại
phụ
thuộc
vào
nguyên
liệu
nhập
khẩu.
Mặt
khác,
giá
trị
mang
lại
của
ngành
dệt
may
Việt
Nam
không
cao,
lợi
nhuận
trên
mỗi
sản
phẩm
chỉ
khoảng
5-10%.
Nguyên
nhân
chủ
yếu
là
do
nguyên
liệu
trong
nước
chỉ
chiếm
phần
nhỏ
trong
chuỗi
giá
trị
trên
sản
phẩm
làm
ra
và
cũng
chưa
chủ
động
được
nhiều
trong
việc
sản
xuất
sợi
và
vải.
Những
nước
cung
cấp
nguyên
liệu
dệt
may
chính
cho
Việt
Nam
là
Trung
Quốc,
Hàn
Quốc,
Đài
Loan
và
Mỹ
(trong
đó
Trung
Quốc
chiến
khoảng
50%
tổng
giá
trị
nhập
khẩu).
Tính
riêng
trong
năm
2020,
giá
trị
nhập
khẩu
nguyên
phụ
liệu
trong
ngành
may
lên
đến
21,38
tỉ
đô
la
Mỹ.
Trong
thời
gian
qua,
nhiều
doanh
nghiệp
dệt
may
đã
mạnh
dạn
đầu
tư
xây
dựng
nhà
máy
sản
xuất
nguyên
liệu.
Đơn
cử
như
Công
ty
cổ
phần
Sợi
Thế
Kỷ
(
STK
–
có
trụ
sở
chính
ở
TPHCM)
đặt
kế
hoạch
xây
dựng
nhà
máy
sản
xuất
sợi
tổng
hợp
Unitex
tại
Tây
Ninh.
Nhà
máy
mới
này
có
tổng
công
suất
là
60.000
tấn/năm,
gấp
đôi
công
suất
hiện
tại,
được
chia
làm
2
giai
đoạn
hoàn
thành.
Tổng
vốn
đầu
tư
của
dự
án
là
120
triệu
đô
la
Mỹ.
Nhà
máy
tập
trung
sản
xuất
sợi
tái
chế,
sợi
chất
lượng
cao,
và
sợi
đặc
biệt.
Ngoài
ra,
các
công
ty
dệt
may
lớn
khác
cũng
có
kế
hoạch
xây
dựng
các
nhà
máy
mới
hoặc
nâng
cấp
công
suất
nhằm
nắm
bắt
các
cơ
hội
từ
hiệp
định
EVFTA
và
RCEP.
Cụ
thể,
Công
ty
cổ
phần
May
Sông
Hồng
và
Công
ty
cổ
phần
dệt
may
–
đầu
tư
thương
mại
Thành
Công
(TCM)
đặt
kế
hoạch
mở
rộng
26%
và
20%
công
suất
nhà
máy.
Đại
diện
TCM
cho
biết
công
ty
dự
kiến
xây
dựng
nhà
máy
Vĩnh
Long
2
với
công
suất
9
triệu
sản
phẩm/năm,
đáp
ứng
100%
nhu
cầu
sản
xuất
của
công
ty.
Tổng
vốn
đầu
tư
xây
dựng
ước
tính
là
11
triệu
đô
la
Mỹ
(tương
đương
260
tỉ
đồng),
dự
kiến
hoàn
thành
vào
tháng
12-2021.
Ông
Vũ
Đức
Giang,
Chủ
tịch
Hiệp
hội
Dệt
may
Việt
Nam,
cho
biết
trong
bối
cảnh
dịch
bệnh
làm
đứt
gãy
nguồn
cung
hiện
tại,
các
doanh
nghiệp
dệt
may
đầu
tư
xây
dựng
các
nhà
máy
để
bù
đắp
cho
phần
cung
thiếu
hụt
là
rất
cần
thiết.
Nhờ
vào
nỗ
lực
của
các
doanh
nghiệp,
hiện
tại
nguồn
nguyên
liệu
trong
nước
đã
đáp
ứng
được
50%
cho
nhu
cầu
sản
xuất.
“Tuy
nhiên,
con
số
này
vẫn
chưa
đáp
ứng
được
mục
tiêu
đề
ra
của
chúng
tôi
là
55-60%.
Nguyên
nhân
chính
là
do
dịch
bệnh
đã
làm
các
dự
án
này
triển
khai
chậm
hơn.
Tôi
hy
vọng
dịch
bệnh
sẽ
sớm
qua
đi,
và
các
dự
án
đầu
tư
này
sớm
được
hoàn
thành.
Khi
đó,
phần
cung
thiếu
hụt
trong
ngành
dệt
may
sẽ
sớm
được
giải
quyết”,
ông
Giang
nói.
Ngoài
các
dự
án
trên,
nhiều
doanh
nghiệp
FDI
cũng
đã
triển
khai
xây
dựng
những
nhà
máy
sản
xuất
nguyên
liệu
trong
ngành
may
trong
thời
gian
qua.
Công
ty
TNHH
Texhong
(Hồng
Kông,
Trung
Quốc)
bắt
đầu
xây
dựng
nhà
máy
dệt
kim
tại
Khu
công
nghiệp
Texhong
Hải
Hà,
Quảng
Ninh
vào
năm
2020
với
tổng
vốn
đầu
tư
214
triệu
đô
la
Mỹ.
Dự
án
tập
trung
vào
sản
xuất
vải
dệt
kim,
vải
móc
và
vải
không
dệt.
Giai
đoạn
một
dự
kiến
hoàn
thành
vào
ngày
21-11-2021
với
công
suất
150
triệu
m2/năm.
Giai
đoạn
hai
với
công
suất
225
triệu
m2/năm
sẽ
được
thực
hiện
vào
giai
đoạn
2022-2023.
Một
dự
án
khác
là
giai
đoạn
bốn
của
nhà
máy
sợi
Brotex
của
Công
ty
TNHH
Brotex
(Việt
Nam),
dự
kiến
sẽ
đi
vào
hoạt
động
vào
quí
3-2021,
nâng
tổng
công
suất
của
nhà
máy
lên
80.000
tấn/năm.
12/
Nguy
cơ
tắc
nghẽn
chuỗi
cung
ứng
khi
dịch
bệnh
gia
tăng
tại
châu
Á
Dịch
vẫn
cản
trở
hoạt
động
của
chuỗi
cung
ứng
Trong
bối
cảnh
dịch
bệnh
gia
tăng
trở
lại
ở
nhiều
nước
châu
Á,
chuyên
gia
Frederic
Neumann
cho
hay,
hầu
hết
các
nước
châu
Á
đã
kiểm
soát
được
virus
với
hiệu
quả
đáng
ngưỡng
mộ
và
nhờ
đó
các
hoạt
động
sản
xuất
nhanh
chóng
được
khôi
phục,
trong
khi
ở
những
nơi
khác,
điều
này
vẫn
còn
bị
hạn
chế.
Tuy
nhiên,
tình
hình
hiện
phức
tạp
hơn
dự
đoán.
Đầu
tiên
là
về
nhu
cầu
hàng
hóa,
doanh
số
bán
‘hàng
hóa’
vẫn
tăng
nhanh,
đặc
biệt
là
ở
Mỹ,
khi
gói
kích
thích
kinh
tế
lớn
đang
thúc
đẩy
hoạt
động
mua
của
người
tiêu
dùng.
Thêm
vào
đó,
hàng
bán
lẻ
tồn
kho
sụt
giảm
xuống
mức
thấp
kỷ
lục
so
với
doanh
số
bán
hàng
trong
tháng
trước.
Điều
này
cho
thấy
rằng,
một
chu
kỳ
trữ
hàng
mạnh
mẽ
sẽ
diễn
ra,
thậm
chí
ngay
cả
khi
người
tiêu
dùng
điều
tiết
việc
mua
hàng
của
họ.
Trong
khi
đó,
về
chuỗi
cung
ứng
của
châu
Á,
có
nguy
cơ
hệ
thống
sản
xuất
của
khu
vực
có
thể
không
hoạt
động
trơn
tru
như
mong
muốn
trong
ngắn
hạn.
Mặc
dù
tác
động
của
các
biện
pháp
hạn
chế
khác
nhau
không
còn
rõ
rệt
như
trước
đây,
chúng
vẫn
là
lực
cản
đối
với
hoạt
động
sản
xuất
–
từ
giảm
giờ
làm
và
nhân
công
cho
đến
làm
chậm
các
hoạt
động
logistic
hơn.
Hơn
thế,
nhiều
nhà
máy
ở
châu
Á
vẫn
thuê
mướn
số
lượng
công
nhân
tương
đối
cao,
chủ
yếu
là
cho
các
khu
vực
lắp
ráp
ít
được
tự
động
hóa
hơn
so
với
các
nền
kinh
tế
tiên
tiến.
Đường
đi
tới
phục
hồi
còn
xa
Nhiều
người
có
thể
chỉ
xem
đó
là
các
biện
pháp
riêng
lẻ
có
ít
tác
động
đến
sản
lượng
sản
xuất.
Nhưng
với
sự
lỏng
lẻo
hiện
đang
tồn
tại
trong
chuỗi
cung
ứng
toàn
cầu,
ngay
cả
chỉ
một
sự
suy
giảm
không
đáng
kể
trong
sản
xuất
hoặc
vận
chuyển
cũng
có
thể
tạo
ra
những
tác
động
lan
xa
và
rộng.
Hơn
nữa,
những
thị
trường
này
là
bánh
răng
thứ
cấp
trong
hệ
thống
sản
xuất
toàn
cầu
bên
cạnh
những
gã
khổng
lồ
như
Nhật
Bản,
Trung
Quốc,
Mỹ,
Đức
và
Hàn
Quốc.
“Và
khi
các
bánh
răng
thứ
cấp
mắc
kẹt,
toàn
bộ
động
cơ
sẽ
nổ
tung”
–
ông
Frederic
Neumann
nhận
xét.
Malaysia
là
một
trong
những
xưởng
thử
nghiệm
và
đóng
gói
chip
ô
tô
lớn
nhất
thế
giới.
Một
phần
ba
điện
thoại
thông
minh
trên
toàn
cầu
được
lắp
ráp
tại
Việt
Nam.
Khi
nói
đến
sản
xuất
bán
dẫn,
đặc
biệt
là
các
sản
phẩm
cao
cấp
hơn,
Đài
Loan
thực
sự
là
trục
truyền
động
trung
tâm
của
ngành
sản
xuất
thế
giới,
chứ
không
chỉ
là
bánh
răng
thứ
cấp.
Ngoài
ra,
còn
có
một
vài
vấn
đề
đau
đầu
khác.
Ở
miền
Nam
Trung
Quốc,
chủ
yếu
là
tỉnh
Quảng
Đông,
tình
trạng
thiếu
điện
đã
xuất
hiện
do
đợt
nắng
nóng
gay
gắt.
Đài
Loan
cũng
đang
phải
vật
lộn
với
tình
trạng
thiếu
điện
cũng
như
thiếu
nước.
Trong
một
hệ
thống
sản
xuất
toàn
cầu
được
cân
bằng
chặt
chẽ
như
hiện
tại,
sự
thiếu
hụt
này
xảy
ra
hoàn
toàn
không
đúng
lúc.
Tất
nhiên,
những
tác
động
của
dịch
bệnh
lên
chuỗi
cung
ứng
sẽ
được
kết
thúc
khi
vaccine
được
triển
khai
rộng
rãi.
Theo
lịch
trình
giao
nhận
vaccine
hiện
nay,
tình
hình
có
thể
được
cải
thiện
đáng
kể
từ
cuối
quý
III.
Tuy
nhiên,
khi
nền
kinh
tế
thế
giới
vật
lộn
với
tình
trạng
thiếu
hụt
tất
cả
các
loại
hàng
hóa,
đường
đi
tới
tình
hình
được
cải
thiện
đó
dường
như
vẫn
còn
dài.
13/
Sau
thời
gian
tạm
“cấm”,
ớt
Việt
xuất
khẩu
trở
lại
Trung
Quốc,
Malaysia
Để
có
thể
tạm
thời
xuất
khẩu
trở
lại
sản
phẩm
ớt
vào
Trung
Quốc,
Việt
Nam
cần
đáp
ứng
được
một
trong
hai
điều
kiện
của
phía
Trung
Quốc.
Thứ
nhất,
ớt
sẽ
phải
được
sản
xuất
từ
những
vùng
không
nhiễm
ruồi
đục
quả.
Thứ
hai,
ớt
phải
được
xử
lý
kiểm
dịch
thực
vật
trước
khi
xuất
khẩu.
Ngay
chiều
ngày
2/6,
Cục
Bảo
vệ
thực
vật
đã
triệu
tập
cuộc
họp
với
các
đơn
vị
liên
quan.
Sau
khi
xem
xét
nghiên
cứu,
rà
soát,
nhận
thấy
rằng
biện
pháp
sản
xuất
từ
vùng
không
nhiễm
dịch
hại,
không
nhiễm
ruồi
đục
quả
sẽ
rất
khó,
Cục
Bảo
vệ
thực
vật
xác
định
sẽ
triển
khai
nghiên
cứu
và
thiết
kế
các
thông
số
kỹ
thuật
về
xử
lý
kiểm
dịch
thực
vật
để
gửi
sang
phía
Trung
Quốc.
“Biện
pháp
xử
lý
dự
kiến
là
bằng
Methyl
Bromide.
Việc
này
sẽ
phải
mất
thời
gian
để
thực
hành
thử
nghiệm,
bởi
sẽ
phải
thu
gom
lượng
nguyên
liệu
lớn
và
làm
nhiều
lần.
Cục
sẽ
cố
gắng
hoàn
thành
sớm
bộ
hồ
sơ
kỹ
thuật
về
xử
lý
kiểm
dịch
thực
vật
sản
phẩm
ớt
để
gửi
sang
phía
Trung
Quốc”,
bà
Nguyễn
Thị
Thu
Hương,
Phó
Cục
trưởng
Cục
Bảo
vệ
thực
vật
nói.
Liên
quan
tới
mặt
hàng
ớt,
bà
Hương
thông
tin
thêm,
Malaysia
sau
2
năm
tạm
dừng
cũng
đã
cho
phép
Việt
Nam
xuất
khẩu
trở
lại.
Điều
kiện
của
Malaysia
là
ớt
cũng
phải
được
sản
xuất
từ
những
vùng
được
Cục
Bảo
vệ
thực
vật
cấp
mã
số
và
kiểm
soát
toàn
bộ
quá
trình
từ
lúc
trồng
đến
cơ
sở
đóng
gói,
xuất
khẩu.
Hiện
nay,
Cục
đã
có
văn
bản
gửi
các
địa
phương,
doanh
nghiệp
triển
khai
các
nội
dung
này.
Lãnh
đạo
Cục
Bảo
vệ
thực
vật
đề
nghị
các
tỉnh
phải
rất
tích
cực
trong
việc
phối
hợp
cùng
với
Cục
Bảo
vệ
thực
vật
hoàn
thiện
các
hồ
sơ
kỹ
thuật.
“Các
thị
trường
nhập
khẩu
hiện
nay
đều
yêu
cầu
phải
quản
lý
cụ
thể
từ
từng
vùng
trồng,
từng
cơ
sở
đóng
gói.
Do
vậy,
trách
nhiệm
của
địa
phương
rất
lớn
trong
việc
thường
xuyên
giám
sát,
đôn
đốc,
đảm
bảo
là
sản
phẩm
của
địa
phương
đáp
ứng
đủ,
đúng
với
yêu
cầu
của
các
nước
nhập
khẩu
sản
phẩm”,
bà
Hương
nhấn
mạnh.
Vietnamese lychees up
for
sale
at
a
FairPrice
supermarket
in
Singapore
Mùa
vải
năm
nay, quả
vải
U
hồng
Thanh
Hà
đã
chính
thức
có
mặt
trên
kệ
của
tất
cả
230
cửa
hàng
thuộc
hệ
thống
siêu
thị
FairPrice
tại
Singapore
vào
ngày
3/6.
Quả
vải
đã
lọt
tốp
10
sản
phẩm
rau
củ,
trái
cây
có
giá
trị
xuất
khẩu
cao
của
Việt
Nam
vào
Singapore.
Theo
bà
Trần
Thu
Quỳnh
–
Tham
tán
Thương
mại
Việt
Nam
tại
Singapore,
quả
vải
Việt
Nam
đã
ghi
dấu
ấn
tốt
nhờ
ưu
thế
chất
lượng
và
giá
cả.
Ngay
mùa
xuất
đầu
tiên
2020,
Việt
Nam
đã
vươn
lên
trở
thành
nước
xuất
khẩu
vải
lớn
thứ
4
vào
Singapore,
vượt
qua
Madagascar
–
một
cường
quốc
xuất
khẩu
vải
của
thế
giới.
Tại
các siêu
thị,
quả
vải
Việt
Nam
luôn
ở
tình
trạng
khan
hiếm,
cạnh
tranh
tốt
với
vải
Trung
Quốc
dù
mức
giá
cao
hơn.
Bà
Trần
Thu
Quỳnh
cho
biết
hằng
năm
Singapore
nhập
khẩu
hơn
2.000
tấn
vải
để
tiêu
thụ
trong
nước,
tái
xuất
và
chế
biến
vải
đóng
hộp.
Vì
vậy,
dư
địa
cho
trái
vải
xuất
khẩu
của
Việt
Nam
ở
“đảo
quốc
Sư
tử”
sẽ
ngày
càng
mở
rộng
trong
những
năm
tới.
Đối
với
nông
sản
Việt
Nam
tại
Singapore,
bà
Trần
Thu
Quỳnh
chia
sẻ
ngoài
những
nông
sản
truyền
thống
như
gạo,
điều,
tiêu,
gần
đây
Singapore
bắt
đầu
quan
tâm
nhập
khẩu
các
sản
phẩm
rau
củ,
trái
cây,
cây
cảnh
và
hoa
từ
Việt
Nam,
với
mức
tăng
trưởng
trung
bình
7%
liên
tục
trong
giai
đoạn
2017-2020.
Ngoài
vải,
bưởi,
xoài
là
những
trái
cây
mang
tính
mùa
vụ,
nhiều
sản
phẩm
trái
cây
mới
của
Việt
Nam
bắt
đầu
có
sự
hiện
diện
cố
định
tại
thị
trường
Singapore
như:
chanh
leo,
hồng
xiêm,
ổi
xanh,
ổi
đỏ,
chuối…
Bà
cho
biết
các
nhà
nhập
khẩu
Singapore
hiện
còn
quan
tâm
đến
nhiều
sản
phẩm
khác
của
Việt
Nam,
đặc
biệt
là
nhãn,
vú
sữa,
mãng
cầu,
các
loại
rau
ăn
lá,
các
loại
đậu
bắp,
đậu
rồng,
dưa
chuột,
bí
ngồi,
bầu…
Bà
cho
biết
từng
ngành
hàng
nhập
khẩu
ở
Singapore
đều
có
hiệp
hội
để
liên
kết,
chia
sẻ
các
thông
tin
về
giá
và
thị
trường.
Vì
vậy,
là
nhà
xuất
khẩu,
Việt
Nam
cần
liên
kết
các
doanh
nghiệp
để
không
“dẫm
chân”
nhau
về
thị
trường,
không
chào
hàng
để
cạnh
tranh
phá
giá,
tiến
tới
“chuyên
môn
hóa”
phân
khúc
thị
trường
nước
ngoài…
Bà
Trần
Thu
Quỳnh
nhận
xét
chiến
lược
kinh
doanh
của
nhóm
hàng
nông
sản
sẽ
rất
khác
biệt
với
nhóm
hàng
công
nghệ
hay
thực
phẩm
chế
biến.
Vì
vậy,
các
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
càng
cần
xác
định
chiến
lược
thâm
nhập
thị
trường
bền
vững,
ổn
định,
dựa
trên
chữ
tín
và
tinh
thần
đối
tác,
tránh
cách
thức
làm
ăn
manh
mún,
chụp
giật.
Sang
các
năm
2018-2019
kim
ngạch
xuất
khẩu
của
Việt
Nam
lần
lượt
vượt
qua
Brazil,
Ảrập
Saudi,
Thái
Lan
và
Malaysia.
Tiếp
theo,
đến
năm
2020
tiếp
tục
vượt
lên
trên
Ấn
Độ,
Ba
Lan
và
Úc
để
lọt
vào
tốp
20
quốc
gia
xuất
khẩu
hàng
hóa
nhiều
nhất
thế
giới.
Xét
dưới
góc
độ
đóng
góp
vào
“rổ
hàng
hóa
xuất
khẩu”
của
thế
giới,
trong
khi
đóng
góp
của
đa
số
các
quốc
gia
đều
giảm,
làm
cho
xuất
khẩu
hàng
hóa
của
thế
giới
năm
2020
giảm
160
tỉ
đô
la
Mỹ
và
0,9%
so
với
năm
2017,
thì
xuất
khẩu
của
Việt
Nam
tăng
gần
68
tỉ
đô
la
và
0,4%.
Các
mức
tăng
này
của
Việt
Nam
đều
đứng
thứ
hai
thế
giới
chỉ
sau
Trung
Quốc.
Với
đặc
thù
của
rổ
hàng
hóa
xuất,
nhập
khẩu
của
Việt
Nam
hiện
nay,
khi
giá
cả
thế
giới
tăng
thì
rổ
hàng
hóa
nhập
khẩu
sẽ
bị
“khuyếch
đại”
mạnh
hơn
so
với
rổ
hàng
hóa
xuất
khẩu,
ngược
lại
so
với
thời
đoạn
giá
cả
thế
giới
giảm
trước
đó.
Đồng
nghĩa
mối
lo
nhập
siêu
đang
lấp
ló
ở
phía
chân
trời.
Với
213
tỉ
đô
la,
năm
2017
Việt
Nam
xếp
thứ
25
trong
những
quốc
gia
nhập
khẩu
lớn
nhất,
với
sáu
quốc
gia
đứng
liền
kề
trên
lần
lượt
là
UAE,
Thổ
Nhĩ
Kỳ,
Nga,
Ba
Lan,
Úc
và
Thái
Lan.
Đến
năm
2020
Việt
Nam
đã
tăng
tốc,
vượt
qua,
để
trở
thành
nền
kinh
tế
nhập
khẩu
lớn
thứ
19
của
thế
giới.
Còn
nhập
khẩu
lại
hầu
như
ngược
lại.
Trong
tổng
mức
tăng
nhập
khẩu
25,82
tỉ
đô
la,
nhập
từ
Trung
Quốc
đã
chiếm
72,3%.
Hạng
sẽ
tăng,
nhưng
nhập
siêu
đang
trở
lại
Với
đặc
thù
của
rổ
hàng
hóa
xuất,
nhập
khẩu
của
Việt
Nam
hiện
nay,
khi
giá
cả
thế
giới
tăng
thì
rổ
hàng
hóa
nhập
khẩu
sẽ
bị
“khuyếch
đại”
mạnh
hơn
so
với
rổ
hàng
hóa
xuất
khẩu,
ngược
lại
so
với
thời
đoạn
giá
cả
thế
giới
giảm
trước
đó.
Điều
đó
cũng
đồng
nghĩa
mối
lo
nhập
siêu
đang
lấp
ló
ở
phía
chân
trời.
Cụ
thể,
các
kết
quả
tính
toán
về
xuất,
nhập
khẩu
các
mặt
hàng
có
các
số
liệu
thống
kê
về
lượng
và
giá
trị
bốn
tháng
qua
cho
thấy,
ở
thời
điểm
này
năm
ngoái,
chúng
ta
tuy
bị
thua
thiệt
về
giá
1,13
tỉ
đô
la
trong
xuất
khẩu
nhóm
hàng
này,
cho
nên
kim
ngạch
giảm
6,9%,
nhưng
được
lợi
2,54
tỉ
đô
la
trong
nhập
khẩu
nhóm
hàng
tương
tự,
cho
nên
kim
ngạch
giảm
7,1%.
Nhưng,
ở
thời
điểm
hiện
tại,
dù
chúng
ta
được
lợi
1,44
tỉ
đô
la
trong
xuất
khẩu
do
giá
tăng,
nhưng
lại
bị
thiệt
tới
3,75
tỉ
đô
la
trong
nhập
khẩu,
nên
kim
ngạch
nhập
khẩu
tăng
khủng
tới
40,2%.
điều
kiện
như
vậy,
rất
có
thể
năm
nay
Việt
Nam
sẽ
khôi
phục
được
nhịp
độ
tăng
trưởng
xuất,
nhập
khẩu
rất
cao
như
trước
đây,
nên
còn
tiếp
tục
được
thăng
hạng,
nhưng
lại
khó
duy
trì
được
mạch
xuất
siêu
năm
năm
liên
tiếp
vừa
qua
và
lạm
phát
sẽ
lại
tăng,
còn
tác
dụng
thúc
đẩy
kinh
tế
tăng
trưởng
yếu
hơn
sẽ
chỉ
là
những
hệ
quả
tất
yếu.
Sang
năm
2021,
hoạt
động
xuất
khẩu
mặt
hàng
này
đã
dần
khởi
sắc
với
mức
tăng
mạnh
so
với
cùng
kỳ
năm
ngoái.
Cụ
thể,
số
liệu
của
Cục
Xuất
nhập
khẩu
(Bộ
Công
Thương)
ước
tính
xuất
khẩu
hàng
rau
quả
của
Việt
Nam
tháng
5/2021
đạt
400
triệu
USD,
tăng
48,3%
so
với
tháng
5/2020.
Đây
là
tháng
thứ
5
liên
tiếp
kể
từ
đầu
năm
2021
rau
quả
duy
trì
đà
tăng
so
với
các
tháng
cùng
kỳ
của
năm
2020.
Tính
chung
5
tháng
đầu
năm
2021,
xuất
khẩu
hàng
rau
quả
ước
đạt
1,77
tỷ
USD,
tăng
18%
so
với
cùng
kỳ
năm
2020.
Một
trong
những
nguyên
nhân
mang
về
mức
tăng
trưởng
ấn
tượng
này
là
do
hàng
rau
quả
xuất
khẩu
sang
thị
trường
Trung
Quốc,
thị
trường
trọng
điểm
của
Việt
Nam,
đang
có
nhiều
tín
hiệu
tích
cực.
Cụ
thể,
trong
4
tháng
đầu
năm
2021,
rau
quả
xuất
khẩu
sang
thị
trường
này
đạt
866,19
triệu
USD,
tăng
16,3%
so
với
cùng
kỳ
năm
2020.
Tỷ
trọng
xuất
khẩu
sang
Trung
Quốc
chiếm
63,2%,
tăng
2,7
điểm
phần
trăm
so
với
cùng
kỳ
năm
2020.
Chia
sẻ
với
người
viết,
ông
Đặng
Phúc
Nguyên,
Tổng
Thư
ký
Hiệp
hội
rau
quả
Việt
Nam,
cho
biết:
“So
với
cùng
kỳ
năm
ngoái,
tình
hình
kiểm
soát
dịch
khi
xuất
khẩu
sang
Trung
Quốc
đã
bớt
gây
gắt
nên
hàng
rau
quả
nhập
khẩu
vào
đã
thuận
lợi
lưu
thông.
Bên
cạnh
đó,
tình
hình
dịch
tại
các
thị
trường
xuất
khẩu
đã
ổn
định
hơn
nhờ
vắc
xin
nên
kinh
tế
dần
phục
hồi,
mở
cửa
và
nhất
là
Trung
Quốc.
Không
chỉ
thị
trường
Trung
Quốc,
kim
ngạch
xuất
khẩu
sang
các
thị
trướng
như
Mỹ,
Nga,
Australia…đều
tăng
mạnh
lần
lượt
là
16,6%,
32,4%,
34,3%…
Chia
sẻ
với
người
viết,
bà
Ngô
Tường
Vy,
Phó
Giám
đốc
Công
ty
TNHH
Xuất
nhập
khẩu
trái
cây
Chánh
Thu,
cho
biết:
“Trong
thời
gian
dịch
bệnh,
những
sản
phẩm
rau
quả
tươi
gặp
trở
ngại
lớn
trong
quá
trình
bảo
quản
cũng
như
vận
chuyển
bằng
đường
biển.
Tuy
nhiên,
công
ty
đã
chuyển
sang
đẩy
mạnh
sản
phẩm
đông
lạnh
và
đạt
được
tín
hiệu
thị
trường
tốt,
đặc
biệt
là
sản
phẩm
sầu
riêng
đông
lạnh.
Cũng
theo
doanh
nghiệp
này,
để
thích
nghi
với
tình
hình
hiện
nay,
tỷ
trọng
xuất
khẩu
hàng
đông
lạnh
của
công
ty
đã
vượt
xa
hàng
rau
quả
tươi,
chiếm
đến
70%
và
chủ
yếu
xuất
khẩu
sang
các
thị
trường
khó
tính.
7/
Đối
xử
đặc
biệt
và
khác
biệt
đối
với
khai
thác
IUU
trong
đàm
phán
thủy
sản
Nhóm
đàm
phán
về
các
quy
tắc
của
Tổ
chức
Thương
mại
thế
giới
(WTO)
tiếp
tục
thảo
luận
về
một
dự
thảo
văn
bản
hợp
nhất
về
việc
chấm
dứt
trợ
cấp
thủy
sản
có
hại
trong
một
loạt
cuộc
họp
vào
cuối
tháng
5.
Các
thành
viên
tập
trung
vào
đối
xử
đặc
biệt
và
khác
biệt
(S&DT)
đối
với
các
nước
đang
phát
triển
như
được
đề
cập
trong
chương
đánh
bắt
cá
bất
hợp
pháp,
không
báo
cáo
và
không
được
kiểm
soát
(IUU)
của
văn
bản
dự
thảo
hợp
nhất.
Hội
nghị
Bộ
trưởng
lần
thứ
11
của
WTO
(MC11)
và
mục
tiêu
14.6
phát
triển
bền
vững
của
Liên
hiệp
quốc
trao
cho
các
nhà
đàm
phán
nhiệm
vụ
đảm
bảo
một
thỏa
thuận
về
loại
bỏ
trợ
cấp
đối
với
khai
thác
IUU
và
cấm
một
số
hình
thức
trợ
cấp
thủy
sản
góp
phần
gây
ra
tình
trạng
dư
thừa
và
đánh
bắt
quá
mức
vào
cuối
năm
2020.
Vào
tháng
3/2020,
cuộc
khủng
hoảng
Covid-19
dẫn
đến
việc
tạm
dừng
các
cuộc
họp
trực
tiếp
và
các
thành
viên
sử
dụng
các
cuộc
họp
trực
tuyến
và
trao
đổi
bằng
văn
bản
để
tiếp
tục
đàm
phán.
Bất
chấp
những
nỗ
lực
đàm
phán
và
các
cuộc
họp
“gần
như
hàng
ngày”
vào
cuối
tháng
11
năm
ngoái,
các
thành
viên
WTO
đã
không
thể
kết
thúc
đàm
phán
trước
cuộc
họp
không
chính
thức
ngày
14/12/2020
của
Ủy
ban
Đàm
phán
Thương
mại
(TNC).
Các
thành
viên
WTO
cam
kết
dựa
vào
tiến
độ
năm
2020
và
đạt
được
giải
pháp
vào
năm
2021.
Nhóm
Đàm
phán
mở
không
chính
thức
về
quy
tắc
(Trợ
cấp
Thủy
sản)
đã
được
triệu
tập
ở
cấp
trưởng
đoàn
vào
các
ngày
27,
29
và
31/5.
Điều
3.8
trong
dự
thảo
văn
bản
nêu
rõ
rằng
lệnh
cấm
theo
Điều
3.1
“sẽ
không
áp
dụng
đối
với
các
khoản
trợ
cấp
được
cấp
hoặc
duy
trì
bởi
các
thành
viên
là
nước
đang
phát
triển,
bao
gồm
cả
các
thành
viên
nước
kém
phát
triển
nhất
(LDC),
dành
cho
những
hoạt
động
liên
quan
đến
thu
nhập
thấp,
nghèo
tài
nguyên
hoặc
sinh
kế
hoặc
các
hoạt
động
liên
quan
đến
đánh
bắt
trong
phạm
vi
12
hải
lý”được
đo
từ
đường
cơ
sở
trong
thời
hạn
hai
năm
kể
từ
ngày
công
cụ
đề
xuất
có
hiệu
lực.
Một
số
thành
viên
là
các
nước
phát
triển
và
đang
phát
triển
cho
biết
họ
“có
thể
đồng
ý
với
văn
bản
này”,
nhận
xét
rằng
các
cuộc
đàm
phán
“đã
đến
hồi
kết”
và
các
thành
viên
nên
chuẩn
bị
để
đưa
ra
các
thỏa
hiệp.
Có
thành
viên
cho
rằng,
việc
miễn
trừ
không
nên
giới
hạn
thời
gian.
Không
nên
miễn
trừ
đối
với
trụ
cột
này,
lập
luận
rằng
đánh
bắt
IUU
là
“có
hại
và
bất
hợp
pháp”
và
do
đó
họ
sẽ
không
nhân
nhượng.
Một
quốc
gia
đang
phát
triển
khác
cho
biết
họ
không
có
ý
định
sử
dụng
S&DT
trong
trụ
cột
IUU
nếu
được
đưa
vào
và
bày
tỏ
sự
sẵn
sàng
đảm
nhận
“những
trách
nhiệm
tương
xứng
với
trình
độ
phát
triển
và
năng
lực
của
mình”.
Trong
các
cuộc
thảo
luận
sâu
hơn,
các
thành
viên
WTO
đã
tranh
luận
về
cách
điều
chỉnh
đối
xử
đặc
biệt
để
đảm
bảo
các
quốc
gia
không
lạm
dụng
các
quyền
miễn
trừ
dành
cho
những
nước
dễ
bị
tổn
thương
nhất.
Các
thành
viên
đề
xuất
một
loạt
các
lựa
chọn
để
cân
bằng
S&DT
với
các
mục
tiêu
bền
vững,
bao
gồm
một
phụ
lục
liệt
kê
các
quốc
gia
đang
phát
triển
đủ
điều
kiện
hoặc
bao
gồm
một
điều
khoản
“chọn
không
tham
gia”.
Có
thành
viên
đã
đề
xuất
các
cam
kết
thực
hiện
riêng
lẻ
tương
tự
như
các
cam
kết
trong
Hiệp
định
Tạo
thuận
lợi
Thương
mại,
trong
đó
mỗi
nước
đang
phát
triển
sẽ
chỉ
ra
các
lệnh
cấm
trợ
cấp
đánh
bắt
mà
họ
cần
hỗ
trợ
và
trong
thời
gian
bao
lâu.
Có
thành
viên
khác
muốn
có
các
đảm
bảo
pháp
lý
rằng
một
số
“nhân
tố
chính”
sẽ
không
được
hưởng
lợi
từ
các
miễn
trừ
S&DT.
Chủ
tọa
cuộc
đàm
phán,
Đại
sứ
Santiago
Wills
của
Colombia,
cho
biết
chủ
đề
của
S&DT
là
một
trong
những
mối
quan
tâm
được
trích
dẫn
nhiều
nhất.
Các
thành
viên
tiếp
tục
rơi
vào
ba
loại:
những
nước
bày
tỏ
lo
ngại
các
điều
khoản
quá
rộng
và
làm
giảm
hiệu
quả
của
hiệp
định
bảo
vệ
nguồn
cá;
những
nước
cho
rằng
các
điều
khoản
quá
hẹp
và
khó
tiếp
cận;
và
những
nước
sẵn
sàng
chấp
nhận
dự
thảo
văn
bản
như
một
sự
thỏa
hiệp,
với
mục
tiêu
hoàn
thành
đàm
phán
vào
tháng
7/2021.Các
thành
viên
tin
rằng
các
điều
khoản
quá
hẹp
đã
bày
tỏ
lo
ngại
rằng
“trung
gian”
không
thể
là
cơ
sở
để
xác
định
S&DT.
Về
khai
thác
IUU,
các
thành
viên
đã
tranh
luận
về
việc
cơ
quan
xác
định
đánh
bắt
IUU
nào
nên
được
công
nhận
và
việc
cấm
trợ
cấp
sẽ
tự
động
như
thế
nào.
Các
cuộc
thảo
luận
về
S&DT
trong
chương
IUU
đã
giúp
làm
rõ
quan
điểm
của
các
nước
đang
phát
triển
rằng
S&DT
trong
chương
IUU
là
nhằm
đảm
bảo
phúc
lợi
của
ngư
dân
khai
thác
và
giải
quyết
các
vấn
đề
thực
hiện,
không
cho
phép
trợ
cấp
cho
việc
đánh
bắt
bất
hợp
pháp.Đại
diện
của
cả
các
nước
phát
triển
và
đang
phát
triển
cho
biết
phần
đánh
bắt
IUU
của
văn
bản
đang
đưa
các
thành
viên
đến
gần
hơn
với
thỏa
hiệp.
Vào
ngày
25/5,
Nhóm
châu
Phi,
Caribe
và
Thái
Bình
Dương
(ACP)
và
Nhóm
châu
Phi
đã
đưa
ra
một
đề
xuất
chung
về
S&DT
cho
các
nước
đang
phát
triển
về
chương
đánh
bắt
quá
mức
và
quá
công
suất
của
dự
thảo
văn
bản.
Đề
xuất
đã
không
được
thảo
luận
trong
cuộc
họp
vào
ngày
27/5.
Trong
cuộc
họp
với
các
trưởng
phái
đoàn
vào
ngày
21/4
trước
đó,
Mỹ
đề
nghị
tìm
hiểu
các
phương
án
để
loại
bỏ
lao
động
cưỡng
bức
trên
tàu
cá.
Mỹ
cho
biết
họ
dự
định
tìm
hiểu
cách
thức
các
quy
tắc
trợ
cấp
nghề
cá,
bao
gồm
cả
đánh
bắt
IUU,
có
thể
hỗ
trợ
các
nỗ
lực
chống
lao
động
cưỡng
bức
trên
tàu
cá.
Đề
xuất
đưa
ra
một
cách
tiếp
cận
“bao
gồm
(1)
bao
trùm
các
nguyên
tắc
hiệu
quả
về
trợ
cấp
có
hại
cho
các
hoạt
động
đánh
bắt
có
thể
liên
quan
đến
việc
sử
dụng
lao
động
cưỡng
bức;(2)
sự
thừa
nhận
rõ
ràng
vấn
đề
và
sự
cần
thiết
phải
loại
bỏ;
và
(3)
tính
minh
bạch
đối
với
các
tàu
thuyền
hoặc
người
điều
hành
sử
dụng
lao
động
cưỡng
bức.Đề
xuất
đã
không
được
trình
bày
trong
cuộc
họp
vào
ngày
27/5.
Các
thành
viên
WTO
có
kế
hoạch
thảo
luận
về
tính
linh
hoạt
bền
vững
trong
đánh
bắt
quá
mức
và
quá
công
suất,
đánh
bắt
xa
bờ
và
các
chủ
đề
khác
trong
các
cuộc
họp
sẽ
được
tổ
chức
từ
ngày
2-11/6.
18/
Sản
xuất
hồi
phục
bất
chấp
làn
sóng
dịch
lần
thứ
4
Sản
xuất
công
nghiệp
tăng
9,9%.
Trong
5
tháng,
một
số
ngành
có
mức
tăng
cao
như
sản
xuất
kim
loại
tăng
38%;
sản
xuất
xe
có
động
cơ
tăng
35%;
sản
xuất
máy
móc,
thiết
bị
chưa
được
phân
vào
đâu
tăng
15,6%;
sản
xuất
sản
phẩm
điện
tử,
máy
vi
tính
và
sản
phẩm
quang
học
tăng
15,5%;
sản
xuất
mô
tô,
xe
máy
tăng
13,6%…
Tính
chung
5
tháng
đầu
năm
2021,
ước
tính
IIP
tăng
9,9%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước.
Trong
đó,
ngành
chế
biến,
chế
tạo
tăng
12,6%
và
tiếp
tục
là
động
lực
tăng
trưởng
chính
của
ngành
công
nghiệp.
Tuy
nhiên,
theo
đánh
giá
của
các
chuyên
gia
kinh
tế,
hiện
DN
nước
ta
vẫn
đang
phải
đối
diện
với
rất
nhiều
khó
khăn
bủa
vây.
Như Bắc
Giang,
Bắc
Ninh…
dịch
bệnh
đang
diễn
biến
phức
tạp.
Dệt
may,
da
giày
– đã
có
tín
hiệu
khởi
sắc
Bức
tranh
sản
xuất
công
nghiệp
2
tháng
được
tô
điểm
màu
sắc
tươi
sáng
của
hai
ngành
công
nghiệp
thế
mạnh
nước
ta
là
ngành
dệt
may,
da
giày.
Theo
đó
đã
có
nhiều
dấu
hiệu
tích
cực
từ
thị
trường
Mỹ,
EU,
Nhật
Bản,
Hàn
Quốc
khi
nhiều
doanh
nghiệp
đã
có
đơn
hàng
xuất
khẩu
đến
quý
III
năm
nay.
Trong
tháng
5,
chỉ
số
sản
xuất
ngành
dệt
tăng
2,2%
so
với
tháng
trước
và
tăng
9,9%
so
với
cùng
kỳ
năm
2020;
ngành
sản
xuất
trang
phục
lần
lượt
tăng
2,1%
và
12,9%.
Bên
cạnh
đó,
ngành
sản
xuất
da
và
các
sản
phẩm
có
liên
quan
tăng
8,1%
và
21,2%.
Tính
chung
5
tháng,
chỉ
số
sản
xuất
ngành
dệt
tăng
8,1%
so
với
cùng
kỳ;
ngành
sản
xuất
trang
phục
tăng
9.1%
và
ngành
sản
xuất
da
và
các
sản
phẩm
có
liên
quan
tăng
12%.
Đáng
chú
ý,
kim
ngạch
xuất
khẩu
hàng
dệt
và
may
mặc
ước
đạt
12,2
tỷ
USD,
tăng
15%
so
với
cùng
kỳ;
kim
ngạch
xuất
khẩu
xơ,
sợi
dệt
các
loại
tăng
60,1%;
kim
ngạch
xuất
khẩu
vải
mành,
vải
kỹ
thuật
khác
tăng
66,2%.
Còn
kim
ngạch
xuất
khẩu
giầy,
dép
các
loại
ước
đạt
8,46
tỷ
USD,
tăng
26,4%
so
với
cùng
kỳ
Một
số
sản
phẩm
trong
ngành
đạt
mức
tăng
trưởng
khá
như:
Vải
dệt
từ
sợi
tự
nhiên
ước
đạt
261,5
triệu
m2,
tăng
9,3%
so
với
cùng
kỳ;
sản
xuất
vải
dệt
từ
sợi
tổng
hợp
và
sợi
nhân
tạo
ước
đạt
482,5
triệu
m2,
tăng
8,8%
so
với
cùng
kỳ;
quần
áo
mặc
thường
ước
đạt
1.882,9
triệu
cái,
tăng
9,7%;
giầy
dép
da
ước
đạt
121
triệu
đôi,
tăng
12,6%.
Gần
đây
nhất
là
vụ
tên
giống
lúa
ST25
bị
doanh
nghiệp
nước
ngoài
đăng
ký
như
thương
hiệu
cho
sản
phẩm
gạo),
hay
mất
quyền
đăng
ký
bảo
hộ
tài
sản
trí
tuệ
(quyền
đối
với
giống
cây
trồng,
sáng
chế…).
Một
mặt,
mất
quyền
tài
sản
trí
tuệ
sẽ
đồng
nghĩa
với
mất
vị
trí
của
doanh
nghiệp
trên
thị
trường,
vốn
rất
nhiều
cạnh
tranh,
điều
ảnh
hưởng
tới
sự
sống
còn
của
doanh
nghiệp.
Mặt
khác,
khi
chi
phí
bỏ
ra
cho
phát
triển
nhãn
hiệu
hay
cho
nghiên
cứu
sáng
tạo
không
phải
là
nhỏ,
thì
việc
mất
quyền
tài
sản
trí
tuệ
cũng
đồng
nghĩa
với
thiệt
hại
tài
chính
đáng
kể
cho
doanh
nghiệp.
Cụ
thể,
đổi
mới
sáng
tạo
có
thể
làm
giảm
nguy
cơ
bất
ổn
có
thể
xảy
ra
(như
nguy
cơ
gặp
khó
khăn
khi
có
những
thay
đổi
môi
trường
sản
xuất
do
bão
lũ,
hạn
hán,
hay
thay
đổi
nhu
cầu
tiêu
thụ
trên
thị
trường),
đồng
thời
mang
lại
những
cơ
hội
mới
(thâm
nhập
vào
thị
trường
mới
nhờ
sản
phẩm
cải
tiến,
hay
dễ
dàng
kêu
gọi
đầu
tư
góp
vốn
hơn),
cũng
như
nâng
cao
hình
ảnh
của
doanh
nghiệp
trong
mắt
người
tiêu
dùng.
Cũng
dưới
góc
nhìn
này,
quyền
SHTT
còn
có
thể
giúp
doanh
nghiệp
thu
hồi
lại
chi
phí
đầu
tư
vào
nghiên
cứu
phát
triển
(nhờ
vào
cấp
li-xăng,
chuyển
giao
tài
sản
trí
tuệ,
hay
khai
thác
các
quyền
SHTT
mà
doanh
nghiệp
là
chủ
sở
hữu).
Thứ
nhất,
chiến
lược
SHTT
cần
xác
định
được
những
tài
sản
trí
tuệ
doanh
nghiệp
đã
có
và
có
thể
có
trong
tương
lai.
Trong
lĩnh
vực
nông
nghiệp,
quyền
SHTT
của
doanh
nghiệp
chủ
yếu
là
các
quyền
sở
hữu
công
nghiệp
(nhãn
hiệu
hay
còn
gọi
là
thương
hiệu,
bằng
sáng
chế,
chỉ
dẫn
địa
lý,
bí
mật
kinh
doanh)
và
quyền
đối
với
giống
cây
trồng.
Cần
phải
nhắc
lại
hai
đặc
điểm
quan
trọng
của
các
quyền
SHTT
nói
trên,
đó
là
tính
lãnh
thổ
(đăng
ký
bảo
hộ
quyền
SHTT
ở
quốc
gia
nào
thì
chỉ
được
hưởng
bảo
hộ
quyền
SHTT
ở
quốc
gia
đó)
và
quyền
nộp
đơn
sớm
nhất
(người
nộp
đơn
sớm
nhất
sẽ
có
lợi
thế
nhất).
Xin
lưu
ý
là
có
một
số
cơ
chế
bảo
vệ
quyền
SHTT
quốc
tế,
cho
phép
đăng
ký
bảo
hộ
một
lần
cùng
ở
nhiều
quốc
gia
khác
nhau
(như
bằng
sáng
chế
châu
Âu,
nhãn
hiệu
châu
Âu,
bảo
hộ
giống
cây
trồng
châu
Âu,
nhãn
hiệu
quốc
tế
theo
hệ
thống
Madrid),
nhằm
giảm
chi
phí
đăng
ký
và
đơn
giản
hóa
thủ
tục
đăng
ký.
Một
điểm
khác
cũng
cần
chú
ý
khi
đăng
ký
bảo
hộ
ở
nước
ngoài,
đó
là
cần
nắm
rõ
các
quy
định
luật
quốc
gia.
Ví
dụ
như
đối
với
giống
cây
trồng,
luật
các
quốc
gia
trên
thế
giới
không
hẳn
là
giống
nhau.
Ở
phần
lớn
các
nước,
bằng
bảo
hộ
giống
cây
trồng
có
thể
được
cấp
cho
loại
giống
“mới”,
đồng
thời
đáp
ứng
các
tiêu
chuẩn
khác
như
“khác
biệt,
đồng
nhất,
ổn
định
và
có
tên
phù
hợp”
(như
theo
điều
158
Luật
SHTT
Việt
Nam
hiện
hành).
Ở
các
nước
này,
không
thể
đăng
ký
bằng
sáng
chế
cho
giống
cây
trồng.
Tuy
nhiên,
ở
một
số
nước
khác,
như
Mỹ
chẳng
hạn,
thì
ngoài
chế
độ
cấp
bằng
bảo
hộ
cho
giống
cây
trồng
(Plant
Variety
Protection)
thì
luật
quốc
gia
này
cũng
cho
phép
cấp
bằng
sáng
chế
(patent)
cho
phương
pháp
lai
tạo
ra
giống
mới
hay
cấp
bằng
sáng
chế
tiện
ích
(utility
patent)
cho
loại
cây
trồng
mới.
Vì
thế,
có
thể
thấy
rất
nhiều
giống
hoa
quả
mới
được
cấp
bằng
sáng
chế
ở
Mỹ.
Nắm
được
sự
khác
biệt
của
các
quy
định
pháp
lý
quốc
gia
sẽ
tránh
cho
doanh
nghiệp
mất
đi
các
cơ
hội
đăng
ký
bảo
hộ,
sản
sinh
ra
tài
sản
trí
tuệ
mới.
Thứ
hai,
một
chiến
lược
SHTT
hợp
lý
và
lâu
dài
thì
không
thể
thiếu
kế
hoạch
duy
trì,
bảo
vệ
cũng
như
khai
thác
các
tài
sản
trí
tuệ
đã
tạo
ra.
Đăng
ký
bảo
hộ
quyền
SHTT
sẽ
đi
cùng
với
việc
duy
trì
hiệu
lực
văn
bằng
bảo
hộ
quyền
SHTT
này,
cụ
thể
là
đóng
lệ
phí
duy
trì
hiệu
lực
tại
các
cơ
quan
về
SHTT
quốc
gia.
Hiện
nay,
các
doanh
nghiệp
lớn
trên
thế
giới
thường
ủy
nhiệm
việc
đại
diện,
quản
lý
và
đóng
lệ
phí
duy
trì
nhãn
hiệu,
bằng
sáng
chế…
cho
các
văn
phòng
luật
chuyên
về
SHTT,
để
đảm
bảo
không
xảy
ra
sai
sót
dẫn
đến
việc
bằng
bảo
hộ
bị
mất
hiệu
lực.
Không
chỉ
thế,
bản
thân
doanh
nghiệp
cũng
cần
có
kế
hoạch
chủ
động
bảo
vệ
quyền
SHTT
của
bản
thân
để
phản
ứng
kịp
thời
khi
xảy
ra
vi
phạm
(như
trong
vụ
tên
giống
lúa
ST25
bị
doanh
nghiệp
nước
ngoài
đăng
ký
làm
nhãn
hiệu,
nếu
như
doanh
nghiệp
Việt
không
làm
thủ
tục
phản
đối
kịp
thời,
thì
nhãn
hiệu
ST25
sẽ
được
cấp
cho
người
đăng
ký).
Cũng
thế,
việc
phát
triển
và
khai
thác
tài
sản
trí
tuệ
là
phần
không
thể
thiếu
trong
mỗi
chiến
lược
doanh
nghiệp.
Đối
với
các
quyền
SHTT,
doanh
nghiệp
cần
lập
rõ
chiến
lược
chuyển
nhượng
quyền
khai
thác,
cấp
li-xăng,
hay
trực
tiếp
khai
thác.
20/
Doanh
nghiệp
thủy
sản
chế
biến
sâu
để
xuất
khẩu
Hai
mặt
hàng
chủ
lực
tăng
cao
Trong
số
các
mặt
hàng
thủy
sản
XK
của
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam,
2
mặt
hàng
chủ
lực
là
tôm
và
cá
tra
bứt
phá
tăng
trưởng
ngoạn
mục.
Đáng
chú
ý
là
mặt
hàng
cá
tra
XK
đang
phục
hồi
mạnh
mẽ,
đặc
biệt
XK
sang
thị
trường
Mỹ
trong
tháng
5/2021
bứt
phá
với
mức
tăng
khoảng
200%,
đạt
33
triệu
USD,
đưa
kết
quả
XK
5
tháng
đầu
năm
2021
lên
135
triệu
USD,
tăng
57%
so
với
cùng
kỳ
năm
2020.
Trong
đó,
mặt
hàng
philê
cá
tra
đông
lạnh
tăng
rất
cao
từ
tháng
3.
Chỉ
tính
riêng
tháng
này,
Mỹ
đã
nhập
khẩu
9.524
tấn
philê
cá
tra
đông
lạnh
chủ
yếu
từ
Việt
Nam,
với
trị
giá
25,4
triệu
USD
trong
tháng
3,
tăng
226%
về
lượng
và
239%
về
trị
giá
so
với
cùng
kỳ
năm
ngoái.
Giá
XK
cá
tra
trung
bình
sang
thị
trường
Mỹ
năm
2020
mặc
dù
thấp
hơn
so
với
năm
2019,
nhưng
sang
quý
1/2021,
cá
tra
phile
đông
lạnh
trung
bình
XK
sang
Mỹ
tăng
lên
mức
2,87
USD/kg.
Kể
từ
cuối
năm
2020,
lượng
cá
tra
tồn
kho
tại
Mỹ
đã
không
còn
nhiều,
thêm
vào
đó
là
sản
lượng
cá
da
trơn
nội
địa
của
nước
này
cũng
sụt
giảm..
EU
đang
là
điểm
đến
kỳ
vọng
của
thuỷ
sản
Việt
XK
thuỷ
sản
Việt
Nam
sang
EU
tháng
5
tiếp
tục
tăng
30%
đạt
gần
95
triệu
USD,
sau
khi
tăng
mạnh
36%
trong
tháng
4
với
97
triệu
USD.
Luỹ
kế
XK
5
tháng
đầu
năm
sang
EU
đạt
trên
380
triệu
USD,
tăng
15%
so
với
cùng
kỳ
năm
ngoái.
Theo
phân
tích
của
Hiệp
hội
Chế
biến
và
XK
thủy
sản
Việt
Nam
(VASEP),
XK
cá
tra
hồi
phục
nhờ
các
thị
trường
chính
là
Mỹ,
Trung
Quốc,
châu
Âu
tăng
mua
trở
lại.
Đặc
biệt,
thị
trường
Mỹ
có
mức
tăng
mạnh
nhất
nhờ
vắc
xin
Covid-19
đã
được
tiêm
chủng
rộng,
các
nhà
nhập
khẩu
tăng
mua
để
phục
vụ
cho
dịch
vụ
ăn
uống
được
hoạt
động
trở
lại.
Cùng
với
cá
tra,
mặt
hàng
tôm
XK
tiếp
tục
tăng
cao.
XK
tôm
tăng
25%
trong
tháng
5
đạt
375
triệu
USD,
sau
khi
đạt
trên
300
triệu
USD
trong
tháng
4,
tăng
23%.
Tính
đến
hết
tháng
5,
XK
tôm
của
Việt
Nam
đạt
1,34
tỷ
USD,
tăng
14%
so
với
cùng
kỳ.Tính
chung,
XK
cá
tra
của
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
đang
hồi
phục
cao
hơn
dự
kiến,
với
mức
tăng
26%
đạt
134
triệu
USD
trong
tháng
5,
sau
khi
tăng
25,8
triệu
USD
đạt
145
triệu
USD
trong
tháng
4.
Kim
ngạch
XK
cá
tra
5
tháng
đầu
năm
đạt
623
triệu
USD,
tăng
12%.
Bên
cạnh
hai
mặt
hàng
XK
chủ
lực,
nhiều
mặt
hàng
hải
sản
XK
cũng
tăng
khá
cao.
Tính
đến
cuối
tháng
5,
XK
các
mặt
hàng
hải
sản
đạt
1,3
tỷ
USD,
tăng
14,5%
so
với
cùng
kỳ
năm
ngoái.
Trong
đó,
XK
cá
ngừ
chiếm
22%
với
292
triệu
USD,
tăng
21%
so
với
cùng
kỳ
năm
2020.
Đáng
chú
ý,
trong
tháng
4
và
5,
XK
cá
ngừ
tăng
gần
1,5
lần
so
với
cùng
kỳ
năm
trước,
là
những
tín
hiệu
tích
cực
cho
xu
hướng
những
tháng
tới.
XK
các
loại
cá
biển
khác
chiếm
53%
XK
hải
sản
với
698
triệu
USD
trong
5
tháng
đầu
năm,
tăng
12%;
XK
mực,
bạch
tuộc
tăng
11%
đạt
212
triệu
USD
cũng
hồi
phục
khả
quan
từ
tháng
3
đến
nay.
XK
nhuyễn
thể
hai
mảnh
vỏ
cũng
tăng
mạnh
81%
trong
tháng
5
góp
phần
đưa
kết
quả
5
tháng
đầu
năm
lên
gần
49
triệu
USD,
tăng
45%
so
với
cùng
kỳ
năm
ngoái.
Thị
trường
NK
hồi
phục
Ông
Hồ
Quốc
Lực,
Chủ
tịch
HĐQT
Công
ty
CP
thực
phẩm
Sao
Ta
cho
rằng,
Covid-19
đã
tác
động
xấu
đến
thế
giới,
nhưng
“trong
nguy
có
cơ”.
Cái
nguy
là
một
số
cường
quốc
nuôi
tôm
đang
vật
vã
với
Covid-19,
chắc
chắn
chuỗi
cung
ứng
nuôi
ít
nhiều
bị
gãy
đổ.
Đó
là
cơ
hội
cho
con
tôm
của
DN
Việt
Nam
thuận
lợi
XK
hơn.
“Tuy
nhiên,
chúng
ta
cũng
không
chủ
quan,
bởi
sự
tăng
trưởng
chỉ
bền
vững
khi
có
sự
đồng
bộ.
Các
mắt
xích
trong
chuỗi
giá
trị
con
tôm
cần
lắm
yếu
tố
này.
Thí
dụ,
nuôi
tôm
phát
triển
nhanh
quá,
có
thể
dẫn
tới
thiếu
thức
ăn
cho
tôm
cục
bộ”-
ông
Hồ
Quốc
Lực
cảnh
báo.
Là
một
trong
những
DN
chế
biến
XK
tôm
nuôi
hàng
đầu
tại
Việt
Nam,
ông
Lê
Văn
Quang,
Tổng
giám
đốc
Công
ty
CP
Tập
đoàn
Thủy
sản
Minh
Phú
cho
rằng,
để
chuẩn
bị
nguồn
nguyên
liệu
phục
vụ
cho
chế
biến
sâu,
Minh
Phú
đã
quyết
định
mở
rộng
vùng
nuôi
trong
nước,
tăng
cường
đầu
tư
công
nghệ
hiện
đại
để
đổi
mới
con
giống,
công
nghệ
nuôi.
Tính
đến
cuối
năm
2020,
Minh
Phú
đã
tự
nghiên
cứu,
phát
triển
và
thử
nghiệm
thành
công
mô
hình
nuôi
tôm
công
nghệ
cao
2-N-4,
từ
đó
đưa
vào
vận
hành
hiệu
quả
tại
2
vùng
nuôi
với
900
ha;
đồng
thời
đẩy
mạnh
hợp
tác
với
một
số
viện
nghiên
cứu
trong
và
ngoài
nước
để
hiện
đại
hóa
công
nghệ
nuôi
tôm.
Ngoài
ra,
trong
nhiều
năm
qua,
Minh
Phú
đã
và
đang
thiết
lập
mạng
lưới
liên
kết
và
cung
ứng
tôm
trải
rộng
khắp
khu
vực
Đồng
bằng
sông
Cửu
Long
và
Tây
Nam
bộ,
với
đa
dạng
mô
hình
nuôi
tôm
bền
vững,
như
100.000
ha
nuôi
tôm
công
nghiệp,
25.000
ha
nuôi
tôm
sinh
thái
rừng
ngập
mặn,
cùng
hơn
10.000
ha
diện
tích
nuôi
tôm
–
lúa.
Cùng
với
đó,
để
gia
tăng
giá
trị
sản
phẩm
XK,
công
ty
đã
tập
trung
chế
biến
sâu,
xây
dựng
và
duy
trì
hệ
thống
truy
xuất
nguồn
gốc
theo
từng
loại
nguyên
liệu,
thậm
chí
từng
vùng
nuôi…
Theo
nhận
định
của
VASEP,
yếu
tố
chính
quyết
định
diễn
biến
XK
thuỷ
sản
của
Việt
Nam
trong
giai
đoạn
hiện
tại
chính
là
thị
trường.
Ngoài
Mỹ
và
EU,
XK
sang
các
thị
trường
có
FTA
với
Việt
Nam
trong
2
năm
qua
tiếp
tục
tăng
mạnh,
trong
đó
XK
sang
Australia
tăng
65%
trong
5
tháng
đầu
năm
nay,
sang
Canada
tăng
12%,
sang
Anh
tăng
17%.
Những
thị
trường
này
đều
chiếm
tỷ
trọng
3,3-4%
kim
ngạch
XK
thuỷ
sản
của
Việt
Nam
và
đây
sẽ
là
những
thị
trường
có
vai
trò
đáng
kể
thúc
đẩy
tăng
trưởng
XK
thuỷ
sản
của
Việt
Nam
năm
2021
và
những
năm
tới.
Hiệp
định
Thương
mại
tự
do
Việt
Nam
–
Liên
hiệp
Vương
quốc
Anh
và
Bắc
Ireland
(UKVFTA)
có
hiệu
lực
từ
ngày
1/5/2021,
Hoạt
động
xuất
khẩu
hàng
hóa
sang
Anh
từ
đầu
tháng
5/2021
trở
đi
sẽ
thuận
lợi
hơn
nữa
khi
UKVFTA
chính
thức
đi
vào
thực
thi
sau
4
tháng
có
hiệu
lực
tạm
thời.
Và
thực
tế,
ước
5
tháng
đầu
năm,
xuất
khẩu
sang
Anh
tăng
trưởng
trên
20%
so
với
cùng
kỳ
năm
2020,
đạt
kim
ngạch
khoảng
2,4
tỷ
USD.
UKVFTA
được
ký
kết
vào
ngày
29/12/2020
tại
Anh,
có
hiệu
lực
chính
thức
từ
1/5/2021.
Anh
là
đối
tác
thương
mại
lớn
thứ
3
của
Việt
Nam
tại
châu
Âu.
Theo
số
liệu
của
Tổng
cục
Hải
quan,
năm
2019,
thương
mại
2
chiều
Việt
–
Anh
đạt
6,6
tỷ
USD,
trong
đó
Anh
đứng
thứ
9
trong
các
thị
trường
xuất
khẩu
chính
của
Việt
Nam,
với
kim
ngạch
5,76
tỷ
USD.
65%
số
dòng
thuế
được
xóa
bỏ
khi
UKVFTA
có
hiệu
lực
và
tăng
lên
99%
sau
khi
kết
thúc
lộ
trình
cắt
giảm
thuế
quan.
Đến
thời
điểm
cuối
lộ
trình,
Việt
Nam
sẽ
hưởng
lợi
qua
việc
tiết
kiệm
được
114
triệu
bảng
Anh
tiền
thuế
đối
với
các
sản
phẩm
xuất
khẩu.
Nhìn
vào
tổng
kim
ngạch
nhập
khẩu
hàng
hóa
mỗi
năm
tại
Anh
là
trên
700
tỷ
USD,
có
thể
thấy
hàng
Việt
hiện
mới
chiếm
không
quá
1%.
Đơn
cử,
với
mặt
hàng
cà
phê,
dù
Việt
Nam
là
nước
xuất
khẩu
cà
phê
lớn
nhất
tính
theo
khối
lượng
vào
thị
trường
này,
nhưng
tính
theo
trị
giá
thì
mới
chiếm
10,9%,
đứng
thứ
4
(sau
Pháp,
Đức
và
Brazil).
Ngành
hàng
rau
quả
cũng
có
lợi
thế
đáng
kể
về
thuế
quan
ưu
đãi
từ
UKVFTA,
với
94%
trong
tổng
số
547
dòng
thuế
rau
quả
và
các
chế
phẩm
từ
rau
quả
có
mức
thuế
suất
0%.
Theo
thống
kê
của
Uncomtrade
(cơ
sở
dữ
liệu
thống
kê
hàng
hoá
xuất
nhập
khẩu
của
Liên
hợp
quốc),
tổng
kim
ngạch
nhập
khẩu
rau
quả
của
Anh
năm
2019
đạt
hơn
1,6
tỷ
USD,
nhưng
rau
quả
từ
Việt
Nam
chỉ
đạt
khoảng
10
triệu
USD/năm.
“Để
có
thể
mở
rộng
thị
phần,
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
rau
quả
Việt
Nam
phải
đáp
ứng
một
cách
bền
vững
các
quy
định
pháp
luật
của
Anh
về
an
toàn
vệ
sinh
thực
phẩm,
giới
hạn
dư
lượng
thuốc
trừ
sâu
thấp,
kiểm
dịch
thực
vật,
giống
cây
biến
đổi
gen,
khả
năng
truy
xuất
nguồn
gốc
rõ
ràng”,
ông
Nguyễn
Cảnh
Cường
đề
nghị.
Chìa
khóa
đưa
hàng
vào
Anh
Nhu
cầu tiêu
dùng tại
thị
trường
Anh
rất
lớn.
Bà
Anh
Dao
Carrick,
chuyên
gia
thương
mại
tại
Anh
lưu
ý:
“Các
doanh
nghiệp
sản
xuất
Việt
Nam
nên
cùng
với
nhà
phân
phối
sở
tại
phát
triển
thương
hiệu
sản
phẩm
của
riêng
mình
phù
hợp
với
từng
phân
khúc
thị
trường”.
Các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
có
thể
liên
hệ
trực
tiếp
với
các
siêu
thị
hoặc
các
cửa
hàng
bán
lẻ
để
đưa
hàng
vào
Anh.
Tuy
nhiên,
các
thương
hiệu
sản
phẩm
Việt
Nam
chưa
được
nhận
diện
tại
Anh
thì
khó
có
thể
thâm
nhập
thị
trường
theo
cách
này.
“Doanh
nghiệp
Việt
Nam
nên
sử
dụng
đại
lý
hoặc
nhà
phân
phối
địa
phương
để
tiếp
cận
thị
trường.
Một
đại
lý
thương
mại
có
thể
thay
mặt
một
nhà
xuất
khẩu,
hoặc
một
nhà
máy
để
giới
thiệu
các
sản
phẩm
hoặc
dịch
vụ
của
họ
cho
các
khách
hàng
tiềm
năng
tại
Anh”,
bà
Anh
Dao
Carrick
nói.
Một
điều
quan
trọng
nữa,
khi
chọn
nhà
phân
phối
hoặc
đại
lý,
doanh
nghiệp
Việt
Nam
cần
đảm
bảo
rằng,
họ
am
hiểu
các
sản
phẩm
của
mình,
có
khả
năng
marketing,
có
tiềm
lực tài
chính và
uy
tín
(không
bị
khiếu,
không
nợ
quá
hạn
…).
Riêng
với
nông
sản,
cần
lưu
ý,
các
tiêu
chuẩn
kỹ
thuật
và
yêu
cầu
chất
lượng
đối
với
hàng
hóa
nhập
khẩu
từ
phía
Anh
rất
cao.
Họ
kiểm
soát
rất
chặt
chẽ
việc
sử
dụng
thuốc
trừ
sâu,
phân
bón
và
các
sản
phẩm
hóa
chất
dùng
trong
nông
nghiệp.
Ngoài
ra,
nhãn
mác
cho
thực
phẩm
phải
đảm
bảo
tính
xác
thực
(thực
phẩm
khớp
với
mô
tả).
22/
Xuất
khẩu
xoài
sang
Hoa
Kỳ:
Giải
pháp
nào
cho
mục
tiêu
chiếm
1%
thị
phần?
Sau
2
năm
Việt
Nam
xuất
khẩu
xoài
sang
thị
trường
Hoa
Kỳ,
lượng
xoài
tươi
mới
chiếm
0,1%
tổng
lượng
xoài
tươi
nhập
khẩu
của
nước
này.
Cục
Xuất
nhập
khẩu
(Bộ
Công
Thương)
dẫn
số
liệu
thống
kê
từ
Bộ
Nông
nghiệp
Hoa
Kỳ
(USDA)
cho
biết,
nhập
khẩu
xoài
các
loại
của
Hoa
Kỳ
trong
3
tháng
đầu
năm
2021
đạt
762,1
nghìn
tấn
(221,9
triệu
USD),
giảm
8,1%
về
lượng
nhưng
tăng
2,1%
về
giá.
Giá
xoài
các
loại
nhập
khẩu
bình
quân
đạt
291,2
USD/tấn,
tăng
11,1%
so
với
cùng
kỳ
năm
2020.
Việt
Nam
là
thị
trường
cung
cấp
xoài
lớn
thứ
13
cho
Mỹ.
Tỷ
trọng
nhập
khẩu
ổn
định.
Ông
Nguyễn
Đình
Tùng
–
Giám
đốc
Công
ty
Vina
T&T
–
cho
biết,
sau
hơn
2
năm
trái
xoài
của
Việt
Nam
được
phép
xuất
khẩu
sang
đây,
sản
lượng
xuất
khẩu
ngày
càng
tăng.
Một
số
giống
xoài
như:
tượng
da
xanh,
xoài
cát
Hòa
Lộc
đang
tiêu
thụ
tốt
tại
thị
trường
này.
Tuy
nhiên,
gần
đây
do
thời
gian
vận
chuyển
logistics
đường
biển
kéo
dài
hơn
30
ngày,
trong
khi
thời
gian
bảo
quản
xoài
chỉ
khoảng
35
ngày,
doanh
nghiệp
không
đủ
thời
gian
để
bán.
Hiện,
việc
xuất
khẩu
xoài
chủ
yếu
được
thực
hiện
bằng
đường
hàng
không.
Ông
Nguyễn
Đình
Tùng
cho
hay,
xoài
cát
Hòa
Lộc
mua
tại
Việt
Nam
thời
điểm
cao
nhất
khoảng
hơn
3
USD/kg,
cộng
với
chi
phí
vận
chuyển
thì
giá
thành
tại
Hoa
Kỳ
lên
tới
13
–
14
USD/kg,
cũng
có
thời
điểm
lên
tới
16
USD/kg.
Đối
với
xoài
tượng
da
xanh,
hiện
giá
thành
cũng
lên
đến
10
USD/kg.
Trong
khi
giá
nhập
khẩu
bình
quân
xoài
các
loại
tại
thị
trường
Hoa
Kỳ
chỉ
khoảng
3
USD/kg.
Xoài
có
nhiều
loại,
mỗi
loại
có
hương
vị
và
phân
khúc
thị
trường
riêng.
Lựa
chọn
phân
khúc
xoài
đặc
sản
như
xoài
cát
Hòa
Lộc,
xoài
tượng
da
xanh
là
hướng
đi
của
doanh
nghiệp.
Để
xuất
khẩu
và
tiêu
thụ
xoài
tốt
ở
Mỹ,
các
chuyên
gia
cho
rằng,
các
nhà
xuất
khẩu
và
kinh
doanh
xoài
cần
tạo
nhiều
ấn
tượng
hơn
nữa
trong
việc
quảng
cáo,
tiếp
thị
sản
phẩm
này.
Tránh
việc
cạnh
tranh
chụp
giật,
ăn
xổi,
tự
buộc
chân
nhau,
sẽ
ảnh
hưởng
đến
văn
hóa
xuất
khẩu
và
trái
cây
Việt
Nam
sẽ
mất
uy
tín
tại
thị
trường
xuất
khẩu.
23/
Hàng
nội
thất
Việt
bị
áp
thuế
cao:
Áp
lực
với
nhà
bán
lẻ
Canada
Theo
CBSA,
một
số
nội
thất
nhập
từ
Trung
Quốc
hiện
phải
chịu
mức
thuế
tạm
thời
lên
tới
296%,
trong
khi
các
sản
phẩm
từ
Việt
Nam
phải
chịu
mức
thuế
tới
101%.
Theo
quyết
định
sơ
bộ
của
CBSA
sau
một
cuộc
điều
tra
về
bán
phá
giá.,
một
số
sản
phẩm
nội
thất
nhập
từ
Trung
Quốc
hiện
phải
chịu
mức
thuế
tạm
thời
lên
tới
296%,
trong
khi
các
sản
phẩm
từ
Việt
Nam
phải
chịu
mức
thuế
tới
101%.
Tại
cửa
hàng
Dodd’s
Furniture
&
Mattress
ở
Victoria,
tỉnh
British
Columbia,
một
chiếc
ghế
sofa
bọc
da,
có
thể
ngả
và
tích
hợp
cổng
sạc
USB,
ở
thời
điểm
đầu
tháng
5/2021
có
giá
6.498
CAD
(5.378
USD).
Tới
giữa
tháng
5/2021,
mức
giá
cho
sản
phẩm
này
đã
vọt
lên
24.998
CAD
(20.691
USD).
Hội
đồng
bán
lẻ
Canada
(RCC)
đã
thành
lập
một
liên
minh
các
nhà
bán
lẻ
để
phản
đối
mức
thuế
mới.
Các
mức
thuế
này
vẫn
có
thể
thay
đổi
khi
CBSA
đưa
ra
quyết
định
cuối
cùng
vào
đầu
tháng
8/2021.
Vụ
việc
này
sẽ
được
đưa
ra
Tòa
án
Thương
mại
Quốc
tế
Canada
vào
tháng
9/2021.
Palliser
Furniture
Ltd.
(có
trụ
sở
tại
Winnipeg)
–
công
ty
khởi
xướng
cuộc
điều
tra
bán
phá
này
–
đã
lập
luận
rằng
hoạt
động
sản
xuất
của
Canada
cần
phải
có
sân
chơi
bình
đẳng
để
cạnh
tranh
với
các
nhà
cung
cấp
ở
nước
ngoài.
Mobilia,
nhà
bán
lẻ
đồ
nội
thất
có
trụ
sở
tại
Montreal,
dự
kiến
sẽ
tăng
giá
trong
những
tháng
tới
và
hiện
bán
lỗ
một
số
mặt
hàng.
Chủ
tịch
Mobilia,
Johannes
Kau,
cho
biết:
“Chúng
tôi
có
nhiều
đơn
đặt
hàng
kéo
dài
đến
tận
tháng
10,
tháng
11/2021.
Một
số
đơn
hàng
đã
bị
trì
hoãn
do
các
nhà
máy
đóng
cửa
trong
đại
dịch.
Mobilia
đang
phải
đối
mặt
với
nguy
cơ
bị
ảnh
hưởng
lớn
về
tài
chính
vì
chúng
tôi
không
muốn
nói
với
khách
hàng
rằng
chúng
tôi
phải
tính
thêm
phí
cho
họ.”
Các
nhà
bán
lẻ
trong
liên
minh
trên
sẽ
tham
gia
vào
quá
trình
xét
xử
của
tòa
án
và
một
số
nhà
bán
lẻ
đã
gửi
thư
đề
nghị
các
nghị
sỹ
thúc
giục
Bộ
trưởng
An
ninh
công
cộng
và
Bộ
trưởng
Tài
chính
xem
xét
giảm
thuế
cho
đến
khi
tòa
án
đưa
ra
kết
luận
của
mình.
“Kỳ
lạ
về
quyết
định
của
CBSA
là
ở
chỗ
nó
đưa
ra
trong
đại
dịch,”
Diane
Brisebois,
Chủ
tịch
kiêm
Giám
đốc
điều
hành
của
RCC.
Mặc
dù
các
nhà
bán
lẻ
đồ
nội
thất
như
Leon’s
hưởng
lợi
từ
nhu
cầu
tăng
cao
do
người
Canada
dùng
tiết
kiệm
để
nâng
cấp
điều
kiện
sinh
hoạt
trong
đại
dịch,
thì
họ
cũng
bị
ảnh
hưởng
bởi
việc
đóng
cửa
và
chi
phí
tăng
thêm
khi
bán
online
Ngoài
ra,
các
nhà
sản
xuất
ở
trong
nước
và
quốc
tế
đều
tăng
giá
do
sự
gián
đoạn
trong
chuỗi
cung
ứng
dẫn
đến
thiếu
hụt
một
số
nguyên
vật
liệu.
Chi
phí
vận
chuyển
cũng
tăng
lên.
Trong
bối
cảnh
này,
các
mức
thuế
mới
được
cho
là
một
“quả
bom
tài
chính”
đối
với
các
nhà
bán
lẻ.
“Chúng
tôi
đang
làm
mọi
thứ
có
thể
để
tìm
nguồn
cung
thay
thế.
Mobilia
đã
mua
một
số
sản
phẩm
từ
các
nhà
sản
xuất
Canada,
nhưng
mức
thuế
trong
một
số
trường
hợp
đã
khiến
công
ty
chuyển
sang
các
nhà
cung
cấp
Italy,”
ông
Kau
cho
biết.
Leon’s
Furniture
cũng
mua
sản
phẩm
của
một
số
nhà
cung
cấp
Canada,
nhưng
Chủ
tịch
của
Leon’s
Furniture
Ltd.,
ông
Mike
Walsh
cho
biết
hoạt
động
sản
xuất
ở
Canada
không
thể
đáp
ứng
nhu
cầu
của
nhà
bán
lẻ
này.
24/
Nhật
Bản
giữ
nguyên
thuế
chống
bán
phá
giá
với
hóa
chất
từ
Hàn
Quốc
Nhật
Bản
giữ
nguyên
thuế
chống
bán
phá
giá
ở
mức
30,8%
trong
năm
năm
đối
với
hợp
chất
kali
cacbonat
(dùng
trong
sản
xuất
kính
cho
các
màn
hình
tinh
thể
lỏng
và
phụ
gia
mỳ
ramen)
từ
Hàn
Quốc.
Bộ
Tài
chính Nhật
Bản ngày
8/6
cho
biết
nước
này
đã
quyết
định
giữ
nguyên
thuế
chống
bán
phá
giá
ở
mức
30,8%
trong
năm
năm
đối
với hợp
chất
kali
cacbonat nhập
khẩu
từ
Hàn
Quốc,
dựa
trên
kết
quả
cuộc
điều
tra
kéo
dài
một
năm,
theo
yêu
cầu
của
một
nhóm
doanh
nghiệp
của
nước
này.
Trước
đó,
ngày
25/3,
Bộ
Tài
chính
Nhật
Bản
đã
tạm
thời
áp thuế
chống
bán
phá
giá trong
bốn
tháng
đối
với
hợp
chất
kali
cacbonat
nhập
khẩu
từ
Hàn
Quốc
Theo
các
doanh
nghiệp
Nhật
Bản,
loại
hợp
chất
kali
cacbonat
nói
trên
đang
được
bán
tại
Nhật
Bản
với
giá
rẻ
hơn
tại
Hàn
Quốc
và
điều
này
gây
thiệt
hại
cho
các
nhà
sản
xuất
trong
nước,
buộc
họ
phải
hạ
giá
bán
hoặc
ngăn
cản
họ
tăng
giá.
Theo
Bộ
Tài
chính
Nhật
Bản,
tình
trạng
bán
phá
giá
đã
gây
“thiệt
hại
đáng
kể”
cho
ngành
công
nghiệp
của
nước
này,
do
đó
các
mức
thuế
bổ
sung
là
cần
thiết
để
bảo
vệ
các
doanh
nghiệp
trong
nước.
Hàn
Quốc
hiện
là
nước
xuất
khẩu
kali
cacbonat
nhất
thế
giới.
Hợp
chất
này
còn
dung
sản
xuất
các
phụ
gia
cho
mỳ
ramen.
25/
Xuất
khẩu
tôm
tăng
mạnh
và
thời
cơ
mở
rộng
nhờ
FTA
Theo
quy
định
mới
của
EU,
từ
ngày
1/7/2021,
tất
cả
hàng
hoá
được
đưa
vào
EU
có
nguồn
gốc
giao
hàng
từ
nước
thứ
ba
đều
thuộc
diện
chịu
thuế
giá
trị
gia
tăng
(VAT)
và
phải
khai
báo
hải
quan.Quy
định
này
áp
dụng
với
cả hàng
hoá được
đặt
từ
các
cửa
hàng
trực
tuyến
ở
nước
ngoài.
Trước
đây,
những
loại
hàng
có
giá
trị
thấp
được
đặt
từ
nước
ngoài
có
thể
được
coi
là
không
đáng
kể.
Tuy
nhiên,
theo
quy
định
mới,
một
người
đặt
những
mặt
hàng
như
vậy
từ
nay
sẽ
phải
cộng
thêm
khoản
chi
phí
về
thuế
và
lệ
phí
hải
quan
vào
giá
thành
cuối
cùng,
cũng
như
phải
tính
đến
các
chi
phí
vận
chuyển
và
phí
khác
có
liên
quan.
Và từ
ngày
1/7/2021,
những
chuyến
hàng
có
giá
trị
thấp
tối
đa
là
22
Euro
nhập
khẩu
từ
bên
ngoài
EU
cũng
sẽ
phải
chịu
thuế
VAT
và
khai
báo
hải
quan.
Để
thực
hiện
tốt
quy
định
mới,
người
khai
hải
quan
cần
bám
sát
những
nguyên
tắc
quan
trọng
theo
hướng
dẫn
của
cơ
quan
Hải
quan.
Trước
hết,
người
mua
cần
xác
định
rõ
nước
gửi
hàng.
Một
số
cửa
hàng
trực
tuyến
có
thể
đặt
tại
châu
Âu
nhưng
trên
thực
tế
hàng
hoá
được
gửi
từ
bên
ngoài
lãnh
thổ
EU.
Nước
gửi
hàng
là
yếu
tố
thông
tin
quan
trọng
để
quyết
định
thông
quan.
Cũng
liên
quan
đến
thuế,
việc
xác
định
số tiền
thuế
VAT cần
được
tính
đến
khi
mua
hàng.
Nếu
người
bán
đã
đăng
ký
trên
hệ
thống
thuế
giá
trị
gia
tăng
của
EU
(IOSS)
thì
thuế
VTA
mà
người
mua
trả
đã
được
tính
vào
giá
bán
hàng
trực
tuyến.
Điều
này
có
thể
xảy
ra
với
số
hàng
trị
giá
tối
đa
150
Euro.
Ngoài
ra,
việc
thực
hiện
thủ
tục
thông
quan
cũng
là
yếu
tố
phải
xem
xét.
Nếu
thuế
VAT
được
thanh
toán
tại
thời
điểm
mua
hàng
thì
công
ty
vận
tải
có
thể
thực
hiện
thủ
tục
hải
quan
đại
diện
cho
người
mua.
Theo
hướng
dẫn
của
công
ty
vận
tải,
nếu
cửa
hàng
trực
tuyến
không
cộng
thuế
VAT
hoặc
trị
giá
hàng
hoá
vượt
quá
150
Euro,
người
mua
hàng
phải
trực
tiếp
làm
thủ
tục
hải
quan
cũng
như
nộp
tiền
thuế
và
lệ
phí
hải
quan
phát
sinh.
Yếu
tố
quan
trọng
cuối
cùng
của
giao
dịch
mua
hàng
là
thời
điểm
hàng
đến.
Tất
cả
hàng
hoá
được
gửi
từ
bên
ngoài
EU
phải
được
khai
báo
và
nộp
thuế
VAT
nếu
giao
hàng
vào
ngày
1/7/2021
hoặc
sau
thời
hạn
này.
Thời
điểm
đặt
hàng
không
được
dùng
làm
căn
cứ
để
tính
thuế
và
lệ
phí
trong
trường
hợp
này.
26/
Tận
dụng
tốt
EVFTA,
xuất
khẩu
da
giày
tăng
tốc
vào
EU
Từ
khi
Hiệp
định
Thương
mại
tự
do
Việt
Nam-EU
(EVFTA)
có
hiệu
lực
đến
nay,
XK
da
giày
Việt
Nam
vào
thị
trường
EU
liên
tục
tăng
trưởng.
Gần
99%
hàng
XK
tận
dụng
được
ưu
đãi
Sau
8
tháng
thực
thi
Hiệp
định
EVFTA
(từ
ngày
1/8/2020-PV),
giày
dép
là
mặt
hàng
nằm
trong
danh
mục
các
mặt
hàng
XK
của
Việt
Nam
có
những
chuyển
biến
tích
cực
về
XK.
Tiêu
chí
xuất
xứ
hàng
hóa
đối
với
mặt
hàng
da
giày
trong
Hiệp
định
EVFTA
tương
đối
linh
hoạt.
Cụ
thể,
đối
với
sản
phẩm
túi
xách
(Chương
42),
quy
định
về
quy
tắc
xuất
xứ
tại
Hiệp
định
EVFTA
cho
phép
sử
dụng
nguyên
liệu
không
xuất
xứ
từ
nhóm
HS
khác
với
nhóm
HS
của
sản
phẩm
hoặc
trị
giá
nguyên
liệu
không
xuất
xứ
nói
chung
được
sử
dụng
trong
quá
trình
sản
xuất
không
vượt
quá
70%
giá
xuất
xưởng
của
sản
phẩm.
Đối
với
sản
phẩm
giày
dép
(Chương
64,
ngoại
trừ
HS
64.06),
tiêu
chí
xuất
xứ
hàng
hóa
trong
Hiệp
định
EVFTA
được
coi
là
chặt
hơn
so
với
các
Hiệp
định
khác
mà
Việt
Nam
đang
tham
gia
khi
không
cho
phép
NK
ngoài
khối
bộ
phận
mũ
giày
đã
gắn
với
đế
lót
trong
hoặc
với
bộ
phận
đế
khác
để
sản
xuất
ra
sản
phẩm.
Đối
với
bộ
phận
giày
dép
(HS
64.06),
tiêu
chí
xuất
xứ
tương
đối
giống
với
các
Hiệp
định
khác
khi
Hiệp
định
EVFTA
cho
phép
sử
dụng
nguyên
liệu
không
xuất
xứ
từ
nhóm
HS
khác
với
nhóm
HS
của
sản
phẩm.
Tiêu
chí
xuất
xứ
giày
dép
trong
Hiệp
định
EVFTA
mặc
dù
được
coi
là
chặt
hơn
một
số
Hiệp
định
khác
nhưng
giống
với
tiêu
chí
xuất
xứ
giày
dép
trong
Cơ
chế
ưu
đãi
thuế
quan
phổ
cập
(GSP)
mà
các
DN
Việt
Nam
đã
quen
và
tận
dụng
tốt.
Để
được
hưởng
ưu
đãi
thuế
quan
từ
Hiệp
định
EVFTA,
hàng
da
giày
của
Việt
Nam
phải
đáp
ứng
các
quy
định
về
quy
tắc
xuất
xứ
hàng
hóa
theo
Hiệp
định
này,
được
cấp
Giấy
chứng
nhận
xuất
xứ
hàng
hóa
(C/O)
mẫu
EUR.1.
Từ
1/8/2020
đến
31/12/2020,
kim
ngạch
da
giày
của
Việt
Nam
(bao
gồm
giày
dép
và
mặt
hàng
túi
xách,
ví,
vali…)
XK
EU
được
các
cơ
quan,
tổ
chức
được
cấp
C/O
mẫu
EUR.1
theo
Hiệp
định
EVFTA
là
1,37
tỷ
USD.
Đạt
1,17
tỷ
USD
trong
quý
1/2021.
Báo
động
về
đứt
gãy
chuỗi
cung
Theo
EVFTA,
100%
các
dòng
hàng
giày
dép
được
cắt
giảm
thuế
quan
về
0%
với
lộ
trình
tối
đa
7
năm.
Trong
đó,
các
mặt
hàng
giày
dép
thuộc
HS
64.01,
64.02,
64.03,
64.05,
64.06
về
cơ
bản
được
cắt
giảm
về
0%
ngay
khi
Hiệp
định
có
hiệu
lực
(ngoại
trừ
một
số
ít
dòng
cắt
giảm
trong
3
hoặc
5
năm
ở
HS
64.04
và
64.05);
mặt
hàng
thuộc
HS
64.03
có
lộ
trình
cắt
giảm
dài
hơn
từ
3
đến
7
năm.
Điều
này
giúp
DN
XK
da
giày
có
thể
hưởng
mức
thuế
suất
0%,
có
lợi
hơn
so
với
Cơ
chế
ưu
đãi
thuế
quan
phổ
cập
(GSP)
ngay
từ
thời
điểm
Hiệp
định
EVFTA
có
hiệu
lực.
Hiệp
định
EVFTA
cho
phép
NK
nguyên
liệu
ngoài
khối
để
sản
xuất
hàng
hóa.
Tuy
nhiên,
việc
đứt
gánh
chuỗi
cung
ứng
do
Covid-19
là
hồi
chuông
báo
động
cho
ngành
sản
xuất
da
giày
trong
nước
khi
nguồn
nguyên
liệu
phụ
thuộc
vào
NK.
Để
phát
triển
bền
vững
và
tận
dụng
EVFTA,
các
DN
da
giày
cần
phát
triển
cân
bằng
nguồn
nguyên
liệu
sản
xuất
trong
nước
để
phục
vụ
sản
xuất,
XK.
Từ
góc
độ
DN,
ngành
hàng,
bà
Phan
Thị
Thanh
Xuân,
Tổng
Thư
ký
Hiệp
hội
Da-Giày-Túi
xách
Việt
Nam
cho
biết,
nguyên
phụ
liệu
ngành
da
giày
Việt
Nam
NK
chính
từ
Trung
Quốc
(60%),
tiếp
đến
là
Hàn
Quốc
và
Đài
Loan
(Trung Quốc).
Những
năm
gần
đây,
việc
chủ
động
nguyên
phụ
liệu
có
sự
chuyển
biến
khá
tốt
khi
các
DN
đã
chuyển
dần
chuỗi
cung
ứng
sản
xuất
nguyên
phụ
liệu
vào
Việt
Nam.
Tuy
nhiên,
vấn
đề
đó
chỉ
thực
hiện
chủ
yếu
ở
DN
lớn.
Các
DN
vừa
và
nhỏ
hạn
chế
nguồn
lực
nên
chưa
chủ
động
trong
việc
giải
quyết
nguyên
phụ
liệu
tại
chỗ.
27/
Canada
thông
báo
thay
đổi
quy
trình
nhập
khẩu
hàng
hóa
Thông
tin
chung
Cơ
quan
Dịch
vụ
biên
giới
Canada (CBSA)
yêu
cầu
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
sang
Canada đang
bị
điều
tra,
áp
dụng
biện
pháp
phòng
vệ
thương
mại
(PVTM)
theo
Đạo
luật
về
các
biện
pháp
nhập
khẩu
đặc
biệt
(SIMA)
đăng
ký
Mã
số
doanh
nghiệp
(Business
Number)
và
Tài
khoản
SIMA
(SIMA
Program
Account).
Sau
khi
Dự
án
CARM
2
có
hiệu
lực,
doanh
nghiệp
nhập
khẩu
vào
Canada và
doanh
nghiệp
xuất
khẩu
sang
Canada muốn
sử
dụng
giá
trị
thông
thường,
các
khoản
điều
chỉnh
giá
xuất
khẩu
hay
mức
trợ
cấp
riêng
biệt
đối
với
từng
lô
hàng
thì
phải
có
Mã
số
doanh
nghiệp
và
Tài
khoản
SIMA.
Nếu
không,
hàng
hóa
nhập
khẩu
sẽ
không
được
hưởng
thuế
suất
riêng
rẽ
trong
các
vụ
việc
chống
bán
phá
giá,
chống
trợ
cấp
mà
phải
chịu
mức
thuế
suất
toàn
quốc
của
biện
pháp
PVTM
đang
áp
dụng.
Theo
thống
kê
của
Cục
PVTM,
Bộ
Công
Thương,
hiện
Việt
Nam
có
07
mặt
hàng
xuất
khẩu
đang
bị
Canada áp
điều
tra,
áp
dụng
biện
pháp
PVTM.
Chi
tiết
xem dưới
đây.
Một
số
lưu
ý
Cách
thức
đăng
ký
Mã
số
doanh
nghiệp
và
Tài
khoản
SIMA:
–
Hoàn
thành
Biểu
mẫu
RC1-19e
và
gửi
tới
địa
chỉ
email: simaregistry-depotlmsi@cbsa-asfc.gc.ca trước
ngày
22
tháng
6
năm
2021.
–
Cung
cấp
bản
sao
của
các
tài
liệu
sau
(chỉ
cung
cấp
các
tài
liệu
tương
ứng
với
hình
thức
pháp
nhân
của
doanh
nghiệp):
a)
Điều
lệ
thành
lập
doanh
nghiệp;
b)
Thỏa
thuận
điều
hành
công
ty
trách
nhiệm
hữu
hạn
(LLC)/
Giấy
chứng
nhận
đăng
ký
doanh
nghiệp;
c)
Hợp
đồng
hợp
tác
kinh
doanh.
–
Cung
cấp
tên
và
địa
chỉ
email
của
người
đại
diện
cho
doanh
nghiệp
khai
Biểu
mẫu
RC1-19e.
Chi
tiết
Thông
báo
của
CBSA
và
Biểu
mẫu
RC1-19e
xem dưới
đây.
Để
đảm
bảo
quyền
lợi
chính
đáng
của
các
doanh
nghiệp
sản
xuất,
xuất
khẩu
hàng
hóa
sang
thị
trường
Canada,
Cục
PVTM
khuyến
nghị
các
doanh
nghiệp
sản
xuất,
xuất
khẩu
sản
phẩm
liên
quan
đăng
ký
Mã
số
doanh
nghiệp
và
Tài
khoản
SIMA
với
cơ
quan
chức
năng
của
Canada trước
thời
hạn
quy
định.
Mọi
chi
tiết
vui
lòng
liên
hệ:
Phòng
Xử
lý
PVTM
nước
ngoài,
Cục
PVTM,
Bộ
Công
Thương,
23
Ngô
Quyền,
Hoàn
Kiếm,
Hà
Nội.
28/
Việt
Nam
–
Canada:
Sớm
thành
lập
Ủy
ban
hỗn
hợp
về
kinh
tế
và
thương
mại
Đó
là
thông
tin
được
đưa
ra
tại
buổi
gặp
song
phương
trực
tuyến
giữa
Bộ
Công
Thương
Nguyễn
Hồng
Diên
và
bà
Mary
Ng
–
Bộ
trưởng
Doanh
nghiệp
Nhỏ,
Xúc
tiến
Xuất
khẩu
và
Thương
mại
Quốc
tế
Canada
bên
lề
Hội
nghị
Bộ
trưởng
Thương
mại
APEC
lần
thứ
27
diễn
ra
mới
đây.
Tại
buổi
gặp,
Bộ
trưởng
Nguyễn
Hồng
Diên
cảm
ơn
Chính
phủ
và
nhân
dân
Canada
đã
có
những
hỗ
trợ
thiết
thực
thông
qua
món
quà
120.000
khẩu
trang
N95
và
gói
hỗ
trợ
3,5
triệu
đô-la
Canada
cho
Quỹ
Ứng
phó
Covid-19
của
ASEAN.
Bộ
trưởng
khẳng
định
Chính
phủ
Việt
Nam
đang
nỗ
lực
triển
khai
các
biện
pháp
mạnh
nhằm
đẩy
lùi
dịch
bệnh,
vừa
tập
trung
thúc
đẩy
sản
xuất,
kinh
doanh
trong
nước
và
sẵn
sàng
hợp
tác
với
các
nước,
trong
đó
có
Canada,
phục
hồi
thương
mại
và
chuỗi
cung
ứng
toàn
cầu.
Hướng
tới
Hội
nghị
Bộ
trưởng
Thương
mại
Tổ
chức
Thương
mại
thế
giới
(WTO)
lần
thứ
12
(MC
12),
sẽ
được
tổ
chức
vào
tháng
12
tới,
hai
Bộ
trưởng
đều
nhất
trí
rằng
WTO
cần
được
cải
cách
để
bắt
kịp
những
thay
đổi
và
thách
thức
mới
của
hệ
thống
thương
mại
thế
giới,
đặc
biệt
là
trước
những
tác
động
nghiêm
trọng
của
đại
dịch
bệnh
Covid-19,
khẳng
định
vai
trò
quan
trọng
của
tổ
chức
này
và
cho
rằng
WTO
cần
được
cải
cách
không
chỉ
về
cơ
chế
đàm
phán
mà
còn
cả
trong
cơ
chế
giải
quyết
tranh
chấp.
Trong
bối
cảnh
hai
nước
hướng
tới
kỷ
niệm
50
năm
thiết
lập
quan
hệ
ngoại
giao
(1973-2023),
Bộ
trưởng
Mary
Ng
cho
biết,
hai
nước
có
nhiều
cơ
hội
để
thúc
đẩy
quan
hệ
song
phương
giữa
hai
nước.
Đặc
biệt,
sẵn
sàng
ký
kết
Biên
bản
thỏa
thuận
hợp
tác
(MOU)
thành
lập
Ủy
ban
hỗn
hợp
về
Kinh
tế
và
Thương
mại
giữa
Việt
Nam
và
Canada
và
mong
muốn
sớm
đưa
Ủy
ban
này
vào
hoạt
động
để
thúc
đẩy
cơ
hội
phát
triển
kinh
tế
–
thương
mại
giữa
hai
nước.
Năm
2020,
mặc
dù
chịu
ảnh
hưởng
nặng
nề
của
đại
dịch
Covid-19,
song
trao
đổi
thương
mại
của
Việt
Nam
với
Canada
năm
2020
đạt
gần
5,1
tỷ
USD,
tăng
6,6%
so
với
năm
2019
và
tăng
30%
so
với
năm
2018
–
thời
điểm
trước
khi
thực
thi
Hiệp
định
Đối
tác
Toàn
diện
và
Tiến
bộ
xuyên
Thái
Bình
Dương
(CPTPP).
Tuy
nhiên,
Bộ
trưởng
Nguyễn
Hồng
Diên
cũng
bày
tỏ
quan
ngại
về
sự
gia
tăng
các
biện
pháp
phòng
vệ
thương
mại
mà
Canada
áp
dụng
với
hàng
hóa
Việt
Nam
trong
thời
gian
gần
đây
và
đề
nghị
phía
Canada
thực
hiện
các
vụ
việc
điều
tra
phòng
vệ
thương
mại
với
các
sản
phẩm
của
Việt
Nam
một
cách
khách
quan,
công
bằng,
phù
hợp
với
quy
định
của
WTO.
Bộ
trưởng
Canada
khẳng
định
luôn
coi
trọng
mối
quan
hệ
hợp
tác
song
phương
với
Việt
Nam
và
hướng
tới
kỷ
niệm
50
năm
ngày
thiết
lập
quan
hệ
giữa
hai
nước
vào
2023,
hai
bên
sẽ
có
nhiều
hoạt
động
hợp
tác
để
củng
cố
và
phát
triển
mối
quan
hệ
tốt
đẹp
này.
Về
Hiệp
định
thương
mại
tự
do
giữa
ASEAN
và
Canada,
Bộ
trưởng
Mary
Ng
cảm
ơn
Việt
Nam
đã
ủng
hộ
sáng
kiến
này
và
hy
vọng
thảo
luận
của
cấp
kỹ
thuật
về
các
điều
khoản
tham
chiếu
sớm
hoàn
thành
để
có
thể
khởi
động
đàm
phán
vào
tháng
9
2021.
29/
Giao
thương
khởi
sắc,
xuất
khẩu
cá
tra
của
Việt
Nam
từng
bước
phục
hồi
Tính
đến
hết
tháng
5/2021,
tổng
giá
trị
xuất
khẩu
cá
tra
đạt
hơn
600
triệu
USD,
tăng
hơn
10%
so
với
cùng
kỳ
năm
2020.
Các
thị
trường
nhập
khẩu
mạnh
cá
tra
Việt
Nam
tăng
nhanh
trong
thời
gian
này
là
Trung
Quốc,
Mỹ,
Brazil
và
Thái
Lan.
Đơn
cử
như,
tổng
giá
trị
xuất
khẩu
cá
tra
sang
Brazil
đạt
khoảng
27
triệu
USD,
Thái
Lan
26
triệu
USD
với
mức
tăng
lần
lượt
38,7%
và
8,5%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước.
“Sự
tăng
trưởng
xuất
khẩu
trở
lại
thị
trường
nhập
khẩu
cá
tra
lớn
nhất
ASEAN
là
Thái
Lan
là
một
tín
hiệu
tốt
nhằm
tăng
giá
trị
xuất
khẩu
cá
tra
sang
khu
vực
này
trong
quý
tới,”
đại
diện
VASEP
đánh
giá.
Bên
cạnh
đó,
thị
trường
Mỹ
cũng
tăng
mạnh
nhập
khẩu
cá
tra
Việt
Nam
kể
từ
đầu
năm
2021.
Trong
tháng
5,
giá
trị
xuất
khẩu
cá
tra
sang
Mỹ
tăng
tới
hơn
120%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước,
đạt
hơn
35
triệu
USD.
Tổng
trị
giá
xuất
khẩu
cá
tra
sang
thị
trường
Hong
Kong
(Trung
Quốc)
đến
cuối
tháng
5
cũng
đạt
khoảng
146
triệu
USD,
chiếm
gần
24%
tổng
trị
giá
xuất
khẩu
cá
tra
của
Việt
Nam.
Dịch
bệnh
và
gián
đoạn
trong
chuỗi
cung
ứng,
ngành
vận
tải
toàn
cầu
buộc
các
doanh
nghiệp
chế
biến
và
xuất
khẩu
thủy
sản
đồng
lòng
thay
đổi
chiến
lược
bán
hàng
để
duy
trì,
giữ
vững
khách
hàng,
vượt
qua
khó
khăn
giai
đoạn
này.
Ông
Trương
Tiến
Dũng,
Tổng
giám
đốc
Công
ty
cổ
phần
Kinh
doanh
thủy
hải
sản
Sài
Gòn
(APT)
chia
sẻ,
xuất
khẩu
cá
tra-basa
và
sản
phẩm
chế
biến
từ
nguyên
liệu
cá
da
trơn
trong
5
tháng
đầu
năm
của
APT
tăng
10%
so
với
cùng
kỳ
năm
2020.
Để
đạt
kết
quả
này,
APT
phải
chủ
động
trao
đổi
với
khách
hàng
để
sản
xuất
mặt
hàng
phù
hợp
với
thị
trường,
thay
vì
chỉ
chào
bán
sản
phẩm
doanh
nghiệp
đang
sản
xuất.
Từ
sự
tư
vấn
của
nhà
nhập
khẩu,
APT
nắm
bắt
được
thị
hiếu
tiêu
dùng
mới
mẻ
của
khách
hàng
thế
giới,
tăng
cường
sản
phẩm
chế
biến
mới
như:
khô
cá,
chả
cá,
các
loại
bánh
có
nhân
là
thịt
cá…
Với
những
sản
phẩm
này,
người
tiêu
dùng
có
thể
dùng
ngay
hoặc
cho
vào
lò
vi
sóng
là
ăn
được.
Không
chỉ
châu
Á,
khô
cá
tra-basa
của
APT
còn
được
Hà
Lan
đặt
hàng,
chỉ
chờ
giấy
phép
bổ
sung
danh
mục
sản
phẩm
xuất
khẩu
theo
quy
định.
Theo
ông
Ong
Hàng
Văn,
Phó
Tổng
giám
đốc
Công
ty
cổ
phần
Thủy
sản
Trường
Giang
(Thành
phố
Sa
Đéc,
tỉnh
Đồng
Tháp),
trong
bối
cảnh
dịch
COVID-19,
nhiều
doanh
nghiệp
thủy
sản
đã
thay
đổi
cách
thức
mua
bán
với
đối
tác.
Thay
vì
bán
giá
CIF
–
giao
hàng
đến
cảng
nước
nhập
khẩu
thì
doanh
nghiệp
chuyển
sang
ký
kết
hợp
đồng
bán
giá
FOB
–
giao
hàng
tại
cảng
Việt
Nam.
Với
phương
thức
này,
việc
vận
chuyển
sẽ
do
đối
tác
nhập
khẩu
lo
hoàn
toàn.
Hiện
ngành
cá
tra
có
hơn
60%
nguyên
liệu
được
doanh
nghiệp
chủ
động
nuôi
nên
đã
có
kế
hoạch
dự
liệu
cho
thị
trường
phục
hồi
trở
lại.
Tuy
nhiên,
nguyên
liệu
để
các
nhà
máy
chế
biến
lại
có
nguy
cơ
thiếu
do
chu
kỳ
nuôi
cá
kéo
dài
từ
7-8
tháng,
không
thể
tăng
nhanh
đột
biến
được.