Câu
chuyện
hai
“hiệp
sĩ”
Đặng
Như
Quỳnh
và
Trần
Hữu
Như
Anh
giúp
bán
cả
ngàn
tấn
dưa
hấu
cho
nông
dân
sẽ
là
nguồn
dữ
liệu
quý
giá
để
phân
tích
và
rút
ra
bài
học
kinh
nghiệm
cho
toàn
ngành
nông
sản
của
Việt
Nam.
Từ
góc
độ
của
bộ
môn
xã
hội
hàng
hóa,
bài
viết
này
ghi
lại
một
vài
điểm
đáng
chú
ý
nhất.
Điểm
nghẽn
phân
phối
Cho
đến
giờ
người
ta
vẫn
dễ
dàng
phê
phán
nông
dân
trồng
cây
không
biết
tính
toán
để
phải
gánh
chịu
cảnh
thua
lỗ
do
cung
nhiều
hơn
cầu,
nhưng
vụ
dưa
Quảng
Ngãi
vừa
rồi
cho
thấy
chính
hệ
thống
phân
phối
mới
là
vấn
đề
cho
nông
sản
Việt
Nam.
Xã
hội
Việt
Nam
chưa
nhận
thức
đúng
vai
trò
quan
trọng
của
thương
lái
trong
xã
hội
hàng
hóa.
Người
ta
dễ
ganh
ghét
với
số
tiền
thương
lái
kiếm
được
khi
trúng
chuyến
hàng
lời
đậm,
hay
buộc
tội
thương
lái
ép
giá
khi
hàng
ở
đầu
mua
bị
ứ
đọng.
Nhưng
người
ta
không
dễ
nhìn
thấy
nếu
người
nông
dân
chỉ
chịu
rủi
ro
với
số
tiền
3.000
đồng/kg
thì
thương
lái
phải
chịu
khoản
rủi
ro
gấp
đôi
con
số
đó
-
6.000
đồng/kg.
Nếu
xuất
khẩu
rủi
ro
còn
gấp
nhiều
lần.
Phải
chi
tiền
ra
để
mua
dưa
hấu,
chi
tiền
để
đưa
dưa
hấu
ra
tới
cửa
khẩu
và
chi
thêm
đủ
mọi
thứ
tiền
để
xuất
khẩu...
Nhìn
vào
cơ
cấu
giá
thành,
nếu
ép
được
giá
ngay
tại
nơi
sản
xuất,
chỉ
xê
xích
được
rất
ít
trong
giá
bán,
cho
nên
rớt
giá
thê
thảm
tại
ruộng
dưa
chủ
yếu
là
do
bế
tắc
ở
nơi
tiêu
thụ
hơn
là
do
thương
lái
ép
giá.
Cũng
cần
phải
nhìn
vào
quy
trình
bán
dưa
ở
Quảng
Ngãi
vừa
qua,
không
chỉ
cần
hai
người
có
uy
tín,
biết
tạo
quan
hệ,
năng
động,
biết
vận
dụng
kỹ
năng
kinh
doanh
vào
mặt
hàng
dưa
hấu
như
“hiệp
sĩ”
Trần
Hữu
Như
Anh
ở
đầu
thu
mua
và
“hiệp
sĩ”
Đặng
Như
Quỳnh
ở
đầu
tiêu
thụ,
mà
cả
một
hệ
thống
người
làm
việc
trong
hai
bộ
máy
đó
-
ở
đây
là
các
tình
nguyện
viên
giúp
bốc
dỡ,
bán
dưa
và
sự
tham
gia
của
các
cán
bộ
Đoàn
ở
Quảng
Ngãi
tạo
lòng
tin
cho
nông
dân
chịu
bán
dưa
trả
chậm.
Nếu
là
một
bộ
máy
kinh
doanh,
tính
ra
công
ty
này
lên
đến
hàng
trăm
người
và
nếu
ghép
số
giờ
làm
việc
của
họ
vào
giá
thành
thì
lượng
tín
dụng
chạy
trong
khâu
tiêu
thụ
lớn
hơn
rất
nhiều
so
với
chi
phí
sản
xuất
ban
đầu
ngay
tại
ruộng
dưa
hấu.
Nhưng
đó
là
điều
bình
thường
trong
nền
kinh
tế
thế
giới
-
khâu
phân
phối
tức
là
phần
dịch
vụ
chiếm
cơ
số
rất
lớn
trong
phần
giá
trị
thặng
dư
của
hàng
hóa.
Các
hiệp
sĩ
trong
vụ
dưa
hấu
Quảng
Ngãi
vừa
rồi
rõ
ràng
là
đã
nhìn
thấu
cơ
chế
hàng
hóa
đặc
thù
của
xã
hội
Việt
Nam
và
đã
dồn
hết
tâm
huyết
cùng
thời
gian,
kinh
nghiệm
để
ngăn
chặn
một
cuộc
khủng
hoảng
nông
sản
nghiêm
trọng.
Họ
đã
thành
công.
Theo
những
trao
đổi
hiện
nay
trên
Facebook
của
cả
nhóm,
có
vẻ
như
họ
sẽ
tiếp
tục
góp
sức
để
giải
bài
toán
nông
sản
cho
Việt
Nam.
Hai
mô
hình
tương
lai
Về
cơ
bản,
sẽ
có
hai
mô
hình
đã
thành
công
trên
thế
giới
để
họ
lựa
chọn
hướng
đi
cho
giai
đoạn
tiếp
theo.
Trước
hết
là
mô
hình
hợp
tác
xã.
Mô
hình
kinh
doanh
lấy
lợi
ích
cộng
đồng
làm
mục
tiêu
hiện
cũng
đang
là
phương
pháp
hoạt
động
của
Tập
đoàn
Co-operative
(viết
tắt
là
Co-op)
nổi
tiếng
ở
Anh,
bao
gồm
từ
siêu
thị
cho
đến
hiệu
thuốc,
ngân
hàng,
bảo
hiểm,
hay
văn
phòng
luật
sư,
du
lịch,
mai
táng.
Có
thể
tổ
chức
hợp
tác
xã
trồng
dưa
trên
địa
bàn
một
huyện
theo
quy
trình
về
thời
gian
và
không
gian
-
có
người
điều
phối
các
hộ
gia
đình
gieo
trồng
cách
nhau
vài
ngày
để
chủ
động
về
vận
tải
và
tiêu
thụ,
yêu
cầu
các
hộ
gia
đình
gần
nhau
xuống
giống
cùng
lúc
để
đủ
lượng
hàng
cho
một
xe
tải
khi
thu
hoạch,
tiết
kiệm
chi
phí
bốc
vác
và
vận
chuyển.
Được
trang
bị
máy
tính
hay
điện
thoại
để
vào
Facebook,
mỗi
hộ
dân
có
thể
lập
một
account
rồi
quy
tụ
vào
thành
một
nhóm
thì
không
cần
gặp
nhau
hội
họp
cũng
có
thể
dễ
dàng
điều
phối
từ
quy
trình
sản
xuất
cho
đến
giống
và
vật
tư,
cũng
như
giá
cả
và
chi
phí
phát
sinh.
Mô
hình
thứ
hai
cũng
đang
được
ưa
chuộng
trên
thế
giới
là
hệ
thống
đánh
giá
xếp
hạng
công
ty
theo
tiêu
chuẩn
mua
bán
công
bằng
-
fairtrade.
Bắt
đầu
từ
chuyện
những
người
uống
cà
phê
ở
các
nước
giàu
muốn
bảo
vệ
người
dân
trồng
cà
phê
ở
các
nước
nghèo
không
bị
ép
giá
nên
người
ta
lập
hội
để
cấp
chứng
chỉ
cho
các
công
ty
tuân
thủ
các
nguyên
tắc
cơ
bản
về
đạo
đức
kinh
doanh.
Người
kinh
doanh
hàng
nông
sản
fairtrade
tự
hào
là
họ
thu
mua
tận
gốc
với
giá
hợp
lý,
thậm
chí
còn
đầu
tư
để
giúp
người
trồng
cà
phê
phát
triển.
Trong
mô
hình
này,
hệ
thống
mua
bán
vẫn
tiếp
tục
do
thương
lái
phụ
trách,
nhưng
chỉ
những
người
kinh
doanh
có
đạo
đức
mới
được
cấp
chứng
chỉ
và
người
mua
sẽ
tự
mình
quyết
định
sẽ
mua
hàng
của
thương
lái
bất
chấp
tính
mạng
người
nghèo,
hay
ủng
hộ
những
doanh
nhân
biết
nhắm
đến
ổn
định
và
phát
triển
xã
hội.
Ở
đây
việc
kinh
doanh
không
còn
đơn
thuần
là
giúp
đỡ
một
nhóm
người
dân
nghèo
nào
đó
mà
sẽ
thay
đổi
hệ
giá
trị
đạo
đức
trong
xã
hội,
nên
mỗi
hành
động
đều
phải
là
tấm
gương
cho
các
thương
lái
khác
noi
theo.