Standard
Chartered:
ASEAN
–
khu
vực
hấp
dẫn
đối
với
các
nhà
đầu
tư
Thứ
tư
-
19/11/2014
06:22
5,
55,
2,
7,
46,
690,
9,
70,
1/3,
26.
Dãy
số
nhìn
rời
rạc
này
phải
không
là
một
mã
số
bí
mật.
Đó
là
10
con
số
quan
trọng
để
hiểu
về
ASEAN.
Ngày
12/11/2014,
tại
Hội
nghị
Thượng
đỉnh
ASEAN
FT
–
Singapore
Ông
Edward
Lee,
Trưởng
Nhóm
Nghiên
cứu
Vĩ
mô
ASEAN,
Ngân
hàng
Standard
Chartered
đã
có
bài
xã
luận
về
ASEAN.
Phân
hóa
nhưng
không
mang
tính
tiêu
cực
Hiệp
hội
các
quốc
gia
Đông
Nam
Á
(ASEAN)
được
thành
lập
ngày
8/8/1967
bởi 5 thành
viên
sáng
lập
là
Indonesia,
Philippines,
Malaysia,
Singapore
và
Thái
Lan.
Đến
năm
1999,
Asean
gồm
10
nước
thành
viên.
ASEAN
hoạt
động
theo
nguyên
tắc
đồng
thuận
–
đó
là
cách
riêng
của
ASEAN.
Mục
tiêu
của
ASEAN
là
hội
nhập
ngày
một
sâu
rộng
giống
như
một
thị
trường
đồng
nhất.
Một
sáng
kiến
quan
trọng
để
hiện
thực
hóa
mục
tiêu
này
là
Cộng
đồng
Kinh
tế
ASEAN
(AEC),
dự
kiến
được
thành
lập
vào
năm
2015.
ASEAN
là
khu
vực
có
sự
phân
hóa
cao,
ví
dụ GDP
bình
quân
đầu
người
của
Singapore
cao
gấp 55 lần
so
với
Campuchia.
Không
chỉ
tồn
tại
cách
biệt
lớn
về
kinh
tế,
ASEAN
còn
bao
gồm
rất
nhiều
nền
văn
hóa,
ngôn
ngữ,
hệ
thống
chính
trị
và
nhiều
dân
tộc
khác
nhau.
Sự
phân
hóa
này
có
thể
giải
thích
phần
nào
những
khó
khăn
của
khu
vực
trong
quá
trình
hội
nhập.
Đồng
thời,
cách
biệt
lớn
về
kinh
tế
đòi
hỏi
quá
trình
hội
nhập
phải
được
thúc
đẩy
hơn
nữa
nhằm
thu
hẹp
khoảng
cách
về
mức
thu
nhập
ở
trong
khu
vực.
Tuy
nhiên,
sự
phân
hóa
này
không
hoàn
toàn
mang
tính
tiêu
cực
bởi
lẽ
qua
đó ASEAN
mang
đến
cho
các
doanh
nghiệp
nhiều
sự
lựa
chọn
khi
hoạt
động
tại
đây,
trong
bối
cảnh
hội
nhập
kinh
tế
sâu
rộng.
ASEAN
là
khu
vực
tăng
trưởng
cao
và
ổn
định
ASEAN
lâu
nay
luôn
là
khu
vực
tăng
trưởng
cao
và
ổn
định
hơn
các
khu
vực
khác.
Trong
giai
đoạn
1980-2013,
tốc
độ
tăng
trưởng
hàng
năm
của
ASEAN
cao
hơn
tốc
độ
tăng
trưởng
toàn
cầu 2
điểm phần
trăm.
Thành
tựu
này
đã
thu
hẹp
khoảng
cách GDP
bình
quân
đầu
người
giữa
ASEAN
và
mức
bình
quân
toàn
cầu
từ
6
lần
vào
năm
1980
xuống
còn
2,7
lần
vào
năm
2013.
Đáng
chú
ý
hơn
nữa
là
tốc
độ
tăng
trưởng
của
khu
vực
luôn
được
duy
trì
ổn
định.
Từ
1980
đến
2013,
tốc
độ
tăng
trưởng
chung
đạt
trên
5%;
ngoại
trừ
thời
gian
khủng
hoảng
tài
chính
châu
Á
và
khủng
hoảng
tài
chính
toàn
cầu.
Ngay
cả
trong
giai
đoạn
khủng
hoảng
tài
chính
toàn
cầu, tốc
độ
tăng
trưởng
của
ASEAN
vẫn
đạt
4,9%.
“Chúng
tôi
tin
rằng
hơn một
nửa
số
thành
viên
của
ASEAN
có
tiềm
năng
tăng
trưởng
ở
mức 7% hoặc
cao
hơn”.
Hiện
tốc
độ
tăng
trưởng
này
đang
được
ghi
nhận
ở
các
quốc
gia
như
Myanmar,
Lào
và
Campuchia.
Với
tốc
độ
tăng
trưởng
7%,
quy
mô
của
một
nền
kinh
tế
sẽ
gia
tăng
gấp
đôi
sau
mỗi
chu
kỳ
10
năm.
Vẫn
còn
nhiều
dư
địa
tăng
trưởng
Dù
ASEAN
có
mức
tăng
trưởng
cao
trong
vài
thập
kỷ
qua,
chúng
tôi
tin
rằng
vẫn
còn
nhiều
dư
địa
tăng
trưởng
trong
khu
vực.
Tỷ
lệ
nông
nghiệp
của
khu
vực
vẫn
còn
khá
cao
-
tính
đến
năm
2013,
chỉ
có 46% dân
số
sống
ở
thành
thị.
Trong
khi
đó,
trên
thế
giới,
tỷ
lệ
đô
thị
hóa
đã
vượt
mốc
50%
từ
năm
2007.
Trong
ASEAN,
chỉ
có
Singapore,
Brunei
và
Malaysia
được
xem
như
là
đã
đô
thị
hoá.
Nền
kinh
tế
Singapore
và
Brunei
có
thể
sẽ
tăng
trưởng
chậm
trong
những
năm
tới,
nhưng tốc
độ
tăng
trưởng
của
toàn
khu
vực
ASEAN
vẫn
có
thể
đạt
khoảng
5%
hoặc
cao
hơn
trong
trung
hạn.
Với
giả
thiết
xu
hướng
đô
thị
hóa
của
các
nước
ASEAN
sẽ
tiếp
tục
được
thúc
đẩy,
chúng
tôi
ước
tính GDP
bình
quân
đầu
người
của
ASEAN
sẽ
tăng
hơn
gấp
đôi,
từ
3.900
USD
năm
2013
lên
8.500
USD
năm
2030.
Đến
lúc
đó,
tỷ
lệ
đô
thị
hóa
của
ASEAN
có
thể
đạt
tới
60%.
Thị
trường
tiêu
dùng
của
ASEAN
đang
mở
rộng
Nhờ
quá
trình
đô
thị
hóa,
thị
trường
tiêu
dùng
của
ASEAN
đang
mở
rộng.
Dân
số
ASEAN
dự
kiến
sẽ
tăng
thêm
hơn
10%
lên 690 triệu
vào
năm
2020.
Nhu
cầu
nhà
ở
sẽ
gia
tăng.
Dân
số
đô
thị
của
ASEAN
dự
kiến
sẽ
gia
tăng
tương
đương
với
3,3
lần
dân
số
Thượng
Hải,
4,4
lần
dân
số
Delhi,
và
9
lần
đân
số
Tokyo
hay
London
tính
tại
năm
2013.
Cùng
với
đà
gia
tăng
dân
số
đô
thị,
mức
thu
nhập
có
thể
sẽ
tăng
trưởng
nhanh
hơn.
Số
lượng
nữ
giới
tham
gia
vào
lực
lượng
lao
động
sẽ
gia
tăng
khi
khu
vực
giáo
dục
công
được
mở
rộng
khắp
khu
vực
với
mức
chi
phí
thấp
hơn.
Điều
này
cũng
đồng
nghĩa
với
việc
số
lượng
gia
đình
trong
đó
có
hai
thành
viên
có
thu
nhập
có
thể
sẽ
gia
tăng.
Chúng
tôi
tin
rằng người
tiêu
dùng
ASEAN
sẽ
là
một
nguồn
cầu
mạnh
mẽ
cho
thị
trường
bất
động
sản
nhà
ở
và
thương
mại,
đồ
gia
dụng,
các
loại
phương
tiện
cơ
giới,
sản
phẩm
thông
tin
và
viễn
thông,
dịch
vụ
chăm
sóc
sức
khỏe
và
tài
chính.
ASEAN
là
khu
vực
hấp
dẫn
đối
với
các
nhà
đầu
tư
ASEAN
là
khu
vực
hấp
dẫn
đối
với
các
nhà
đầu
tư
quốc
tế.
Khu
vực
này
thu
hút 9% dòng
vốn
FDI
toàn
cầu
năm
2013,
vượt
qua
cả
Trung
Quốc.
Hầu
hết
vốn
FDI
được
đổ
vào
lĩnh
vực
sản
xuất
và
điều
này
cho
thấy
điểm
tích
cực
của
ASEAN:
hấp
dẫn
vốn
đầu
tư
vào
cơ
sở
sản
xuất.
Tuy
nhiên,
ASEAN
không
chỉ
hấp
dẫn
đầu
tư
nhờ
năng
lực
sản
xuất;
nhà
đầu
tư
còn
thấy
ASEAN
như
một
thị
trường
nội
địa
rất
lớn.
Nếu
xem
ASEAN
là
một
quốc
gia
duy
nhất,
đó
sẽ
là
thị
trường
lớn
thứ
ba
trên
thế
giới
về
dân
số
sau
Trung
Quốc
và
Ấn
Độ.
ASEAN
có
thể
được
lợi
từ
sự
suy
giảm
sức
cạnh
tranh
về
chi
phí
của
Trung
Quốc.
Lực
lượng
lao
động
của
ASEAN
dự
kiến
sẽ
tăng
thêm 70triệu
vào
năm
2030
(so
với
năm
2010).
Trong
khi
đó,
lực
lượng
lao
động
của
Trung
Quốc
dự
kiến
sẽ
giảm
gần
70
triệu.
Tuy
nhiên,
ASEAN
sẽ
cần
phải
nâng
cao
năng
suất
lao
động
để
thu
hút
đầu
tư.
Năng
suất
lao
động
tại
hầu
hết
các
nước
ASEAN
chỉ
bằng
khoảng 1/3đến
1/2
so
với
năng
suất
lạo
động
tại
Mỹ,
ngoại
trừ
Singapore
(nước
có
năng
suất
lao
động
cao
nhất
châu
Á).
ASEAN
có
thể
phần
nào
thu
hẹp
khoảng
cách
với
các
nền
kinh
tế
có
năng
lực
sản
xuất
cao
hơn
bằng
cách
gia
tăng
số
lượng
và
chất
lượng
vốn
cổ
phần
của
mỗi
công
nhân
(capital
stock
per
worker).
Trong
khu
vực
ASEAN,
trừ
Singapore,
chỉ
số
này
chỉ
khoảng
10-40%
so
với
Mỹ.
ASEAN
có
thể
đẩy
mạnh
vai
trò
của
mình
trong
thương
mại
toàn
cầu
Đón
nhận
xu
hướng
đầu
tư
ưu
tiên
cho
ASEAN,
khu
vực
này
có
thể
đẩy
mạnh
vai
trò
của
mình
trong
thương
mại
toàn
cầu.
ASEAN
đứng
thứ
tư
thế
giới
về
xuất
khẩu
và
chiếm
7%
kim
ngạch
xuất
khẩu
toàn
cầu
trong
năm
2013.
Với
việc
dòng
vốn
FDI
đang
dịch
chuyển
từ
Trung
Quốc
sang
ASEAN,
khu
vực
này
sẽ
có
thể
bắt
kịp
với
Trung
Quốc
–
nước
xuất
khẩu
hàng
đầu
thế
giới.
Trong
dài
hạn,
ASEAN
sẽ
có
lợi
từ
các
hiệp
định
thương
mại
tự
do
hiện
đang
được
đàm
phán,
đặc
biệt
trong
số
đó
là
Hiệp
định
Đối
tác
Kinh
tế
Toàn
diện
Khu
vực
(RCEP)
và
Hiệp
định
Đối
tác
Xuyên
Thái
Bình
Dương
(TPP).
Thông
qua
những
hiệp
định
này,
các
nền
kinh
tế
ASEAN
có
thể
tiếp
cận
những
thị
trường
có
quy
mô
lớn
hơn
nhiều
lần.
Ngoài
ra,
thương
mại
nội
khối
ASEAN
cũng
có
thể
phát
triển
hơn
nữa
nhờ
tăng
cường
hợp
tác
kinh
tế
ngày
càng
mạnh
mẽ
với
sự
hỗ
trợ
của
các
sáng
kiến,
trong
đó
có
việc
thành
lập
Cộng
đồng
Kinh
tế
ASEAN
(AEC),
và
sự
hỗ
trợ
của
dòng
vốn
FDI
cùng
với
sự
thịnh
vượng
đang
gia
tăng
trong
khu
vực.
Năm
2013, thương
mại
nội
khối
chiếm
khoảng 26% tổng
khối
lượng
thương
mại
của
ASEAN.
Trong
một
vài
tháng
trở
lại
đây,
niềm
tin
vào
nền
kinh
tế
toàn
cầu
nằm
ở
mức
thấp
và
ASEAN
cũng
ít
nhiều
bị
ảnh
hưởng.
Tuy
nhiên,
nếu
có
thể
tăng
trưởng
'chậm'
ở
mức
5%
trong
ngắn
hạn,
ASEAN
vẫn
là
một
khu
vực
rất
khả
quan.