Bài
học
thành
công
và
thất
bại
trong
kinh
tế
thị
trường,
hội
nhập
quốc
tế,
trong
đó
có
thu
hút
FDI
là
tài
sản
quý
giá
để
người
Việt
Nam
khôn
ngoan
hơn...
Gần
25
năm
đã
qua
kể
từ
khi
Luật
Đầu
tư
nước
ngoài
tại
Việt
Nam
ra
đời
vào
tháng
12
năm
1987.
Thành
tựu
nhiều,
nhưng
không
phải
là
không
có
những
hạn
chế
trong
thu
hút
vốn
đầu
tư
trực
tiếp
nước
ngoài
(FDI).
Giờ
là
lúc
cần
phải
dựa
trên
hệ
tiêu
chí
khoa
học
để
đánh
giá
khách
quan,
toàn
diện
kết
quả,
tác
động
của
FDI,
phát
hiện
những
vấn
đề
cần
giải
quyết
làm
căn
cứ
để
đề
ra
định
hướng
mới,
nhằm
nâng
cao
chất
lượng
và
hiệu
quả
dòng
vốn
FDI
trong
thời
gian
tới.
Dấu
ấn
từ
những
con
số
Cuối
năm
1987,
Luật
Đầu
tư
nước
ngoài
tại
Việt
Nam
được
Quốc
hội
thông
qua,
khi
nước
ta
còn
trong
vòng
xoáy
cuộc
khủng
hoảng
kinh
tế
-
xã
hội,
lạm
phát
phi
mã,
sản
xuất
và
lưu
thông
chậm
phát
triển,
làm
không
đủ
ăn,
buộc
phải
dùng
tem
phiếu
“phân
phối
sự
thiếu
thốn”;
khi
các
nước
“phương
Tây”
cấm
vận
đối
với
Việt
Nam,
quan
hệ
kinh
tế
đối
ngoại
hầu
như
chỉ
bó
hẹp
trong
khung
khổ
Hội
đồng
Tương
trợ
kinh
tế
với
12
nước
xã
hội
chủ
nghĩa
(cũ).
Luật
Đầu
tư
nước
ngoài
1987
được
dư
luận
quốc
tế
đánh
giá
cao.
Hoạt
động
FDI
là
khâu
đột
phá
trong
hội
nhập
kinh
tế
quốc
tế
nhờ
thị
trường
đầy
tiềm
năng
của
Việt
Nam
có
sức
hấp
dẫn
hàng
trăm
nhà
đầu
tư
quốc
tế,
trong
đó
có
các
nước
đang
thi
hành
chính
sách
cấm
vận
đối
với
nước
ta,
điển
hình
là
Mỹ.
Mặc
dù
cuối
năm
1994,
Tổng
thống
Bill
Clinton
mới
bỏ
lệnh
cấm
vận
đối
với
Việt
Nam,
nhưng
một
số
nhà
đầu
tư
nước
này
thông
qua
nước
thứ
ba
đã
thực
hiện
nhiều
dự
án
FDI
ở
nước
ta
từ
năm
1989.
Những
đóng
góp
to
lớn
Có
thể
nói,
FDI
đã
góp
phần
quan
trọng
vào
việc
thực
hiện
mục
tiêu
phát
triển
kinh
tế
-
xã
hội
của
đất
nước.
Tỷ
trọng
FDI
trong
tổng
vốn
đầu
tư
toàn
xã
hội
1991
-
2000
là
30%,
2001
-
2005
là
16%,
2006
-
2011
là
28%.
Các
doanh
nghiệp
FDI
đóng
góp
vào
GDP
thời
kỳ
2001
-
2005
là
14,5%,
tăng
lên
20%
năm
2010;
nộp
ngân
sách
nhà
nước
năm
2010
là
3,1
tỷ
USD
gần
bằng
cả
5
năm
2001
-
2005
(3,5
tỷ
USD).
FDI
tạo
ra
khoảng
40%
giá
trị
sản
lượng
công
nghiệp,
có
tốc
độ
tăng
khá
cao,
2001-
2010
tăng
17,4%/năm
trong
khi
toàn
ngành
công
nghiệp
tăng
16,3%/năm.
Kim
ngạch
xuất
khẩu
của
khu
vực
FDI
tăng
nhanh,
2001
-
2005
là
57,8
tỷ
USD,
2006
-
2010
là
154,9
tỷ
USD,
bằng
2,67
lần,
chiếm
55%
tổng
kim
ngạch
xuất
khẩu
cả
nước
(kể
cả
dầu
thô).
Bên
cạnh
đó,
FDI
đã
góp
phần
quan
trọng
hình
thành
nhiều
ngành
kinh
tế,
như
khai
thác,
lọc
hóa
dầu,
ô
tô,
xe
máy,
điện
tử,
xi
măng,
sắt
thép,
thực
phẩm,
thức
ăn
gia
súc;
cũng
như
góp
phần
hình
thành
một
số
khu
đô
thị
hiện
đại
như
Phú
Mỹ
Hưng,
Nam
Thăng
Long,
nhiều
khách
sạn
4-
5
sao,
khu
nghỉ
dưỡng
cao
cấp,
văn
phòng
cho
thuê...
Lĩnh
vực
dịch
vụ
tài
chính,
bảo
hiểm,
ngân
hàng,
bán
buôn,
bán
lẻ
đã
du
nhập
phương
thức
kinh
doanh
hiện
đại,
công
nghệ
tiên
tiến,
thỏa
mãn
nhu
cầu
ngày
càng
cao
của
các
tầng
lớp
dân
cư.
Một
thành
tựu
khác,
tính
đến
cuối
năm
2011,
khu
vực
FDI
tạo
ra
hơn
2,3
triệu
việc
làm
trực
tiếp
và
hàng
triệu
việc
làm
gián
tiếp,
trong
đó
có
hàng
vạn
kỹ
sư,
nhà
quản
lý
trình
độ
cao,
đội
ngũ
công
nhân
lành
nghề,
với
thu
nhập
ngày
càng
tăng,
du
nhập
phương
thức
lao
động,
kinh
doanh
và
quản
lý
tiên
tiến.
Còn
đó
những
nỗi
lo
Tuy
nhiên,
bên
cạnh
những
thành
công,
hoạt
động
FDI
cũng
đã
bộc
lộ
những
nhược
điểm
và
khuyết
điểm,
như
chưa
phù
hợp
với
quy
hoạch
phát
triển
ngành
và
vùng
kinh
tế,
một
số
máy
móc
thiết
bị
công
nghệ
lạc
hậu
đã
được
nhập
khẩu,
gây
ô
nhiễm
môi
trường
nghiêm
trọng...
Chuyện
ô
nhiễm
ở
sông
Thị
Vải,
sông
Cầu,
sông
Nhuệ
là
ví
dụ
điển
hình.
Cùng
với
đó,
cũng
đã
xảy
ra
“cuộc
chiến
giữa
các
tỉnh,
thành
phố
chào
mời
nhà
đầu
tư
quốc
tế”
bằng
những
ưu
đãi
quá
mức
thuế,
tiền
thuê
đất,
ảnh
hưởng
tiêu
cực
đến
phúc
lợi
chung
của
cộng
đồng.
Đã
xảy
ra
tranh
chấp
lao
động
trong
một
số
doanh
nghiệp
FDI.
Gần
đây,
việc
“chuyển
giá”
của
một
số
doanh
nghiệp
FDI,
gây
ra
tình
trạng
“lỗ
giả
lãi
thật”
nổi
lên
như
vấn
đề
thời
sự.
Nhiều
bài
báo
đã
đề
cập
các
vấn
đề
đó,
bài
này
chỉ
lưu
ý
thêm
hai
thông
tin:
Một
là,
theo
báo
cáo
“Chỉ
số
năng
lực
cạnh
tranh
cấp
tỉnh
năm
2010”
của
Cơ
quan
Phát
triển
quốc
tế
Mỹ
(USAID)
và
Dự
án
Nâng
cao
năng
lực
cạnh
tranh
Việt
Nam
(VNCI)
trên
cơ
sở
khảo
sát
1.155
doanh
nghiệp
của
47
quốc
gia,
đại
diện
cho
21%
số
doanh
nghiệp
FDI
đang
hoạt
động
thì
“doanh
nghiệp
FDI
tại
Việt
Nam
có
quy
mô
tương
đối
nhỏ
và
có
lợi
nhuận
thấp,
chủ
yếu
làm
thầu
phụ
cho
các
công
ty
đa
quốc
gia
lớn
hơn,
do
đó
thường
nằm
trong
khâu
thấp
nhất
của
giá
trị
sản
phẩm”;
khoảng
5%
doanh
nghiệp
FDI
hoạt
động
trong
ngành
công
nghệ
hiện
đại,
5%
vào
dịch
vụ
khoa
học
-
công
nghệ,
3,5%
vào
dịch
vụ
tài
chính,
quản
lý
đòi
hỏi
kỹ
năng
cao.
Hai
là,
khi
trả
lời
câu
hỏi
doanh
nghiệp
có
ý
định
cân
nhắc
đầu
tư
ở
nước
khác
hay
chỉ
tập
trung
đầu
tư
ở
Việt
Nam,
thì
55%
doanh
nghiệp
tham
gia
phỏng
vấn
cho
biết,
có
cân
nhắc
đầu
tư
ở
nước
khác,
trong
đó
30%
sang
Trung
Quốc,
10%
sang
Thái
Lan,
8%
sang
Campuchia,
6%
sang
Indonesia,
4%
sang
Philippines
và
4%
sang
Lào.
Mặc
dù
các
tư
liệu
điều
tra
chọn
mẫu
chỉ
có
tính
tham
khảo,
nhưng
cũng
báo
động
rằng,
nước
ta
đã
chậm
chuyển
đổi
định
hướng
chính
sách
FDI
từ
đầu
thế
kỷ
XXI.
Môi
trường
đầu
tư
tuy
đã
được
cải
thiện,
nhưng
so
với
nhiều
nước
trong
khu
vực
thì
chưa
đủ
hấp
dẫn
nhà
đầu
tư
có
tiềm
năng
lớn.
Đối
với
Việt
Nam,
cuộc
cạnh
tranh
thu
hút
đầu
tư
càng
gay
gắt
hơn
khi
theo
xếp
hạng
năm
2011,
Trung
Quốc
vẫn
dẫn
đầu,
Indonesia,
Malaysia
và
Singapore
lọt
vào
top
10
quốc
gia
có
môi
trường
đầu
tư
tốt
nhất
thế
giới;
và
khi
trong
số
5
nước
mới
nổi
BRICS,
thì
4
nước
đã
lọt
vào
danh
sách
10
quốc
gia
có
nền
kinh
tế
hàng
đầu
thế
giới,
là
Trung
Quốc
(thứ
2),
Brazil
(thứ
6),
Nga
(thứ
9)
và
Ấn
Độ
(thứ
10).
Với
dân
số
gần
3
tỷ
người,
4
nước
này
là
những
thị
trường
hấp
dẫn
FDI
nhất
thế
giới.
Sau
khi
Luật
Đầu
tư
nước
ngoài
ra
đời,
ba
năm
đầu
1988
-
1990,
FDI
chưa
tác
động
rõ
rệt
đến
tình
hình
kinh
tế
-
xã
hội
nước
ta.
Nhưng
từ
năm
1991
đến
năm
1997
đã
diễn
ra
làn
sóng
FDI
thứ
nhất,
với
2.230
dự
án
và
vốn
đăng
ký
16,244
tỷ
USD,
vốn
thực
hiện
12,98
tỷ
USD.
Trong
đó,
chỉ
riêng
năm
1997,
vốn
thực
hiện
đã
đạt
3,115
tỷ
USD,
gấp
9,5
lần
năm
1991.
Tuy
nhiên,
từ
năm
1998
đến
năm
2004,
do
tác
động
tiêu
cực
của
cuộc
khủng
hoảng
kinh
tế
khu
vực,
nên
trong
số
3.968
dự
án
mới,
phần
lớn
có
quy
mô
nhỏ,
vốn
đăng
ký
năm
1998
chỉ
là
5,099
tỷ
USD,
năm
2000
là
2,838
tỷ
USD,
năm
2004
là
4,547
tỷ
USD.
Trong
khi
đó,
vốn
thực
hiện
trong
giai
đoạn
này
là
17,66
tỷ
USD,
chỉ
tăng
36%
so
với
giai
đoạn
1991-1997.
Nhưng
năm
2005
lại
mở
đầu
làn
sóng
FDI
thứ
hai
vào
Việt
Nam,
với
vốn
đăng
ký
6,839
tỷ
USD
và
vốn
thực
hiện
3,3
tỷ
USD.
Từ
năm
2006
tới
nay,
Việt
Nam
đã
thu
hút
được
một
lượng
lớn
vốn
FDI.
Con
số
giải
ngân
cũng
khá
tích
cực.
Báo
cáo
của
Bộ
Kế
hoạch
và
Đầu
tư
cho
thấy,
tính
chung,
từ
năm
1988
đến
năm
2011,
tổng
vốn
đăng
ký
còn
hiệu
lực
của
13.496
dự
án
FDI
là
195,9
tỷ
USD,
vốn
thực
hiện
là
88,2
tỷ
USD,
chiếm
43,2%
vốn
đăng
ký.
Tầm
nhìn
2012
và
sự
chuyển
hướng
chính
sách
Năm
2012,
tình
hình
kinh
tế
quốc
tế
biến
động
theo
chiều
hướng
không
thuận
lợi,
giá
cả
thị
trường
thế
giới
có
xu
hướng
giảm,
nợ
công
ở
nhiều
nước
vẫn
là
nguy
cơ
lớn.
Bà
Christine
Lagarde,
Giám
đốc
quỹ
Tiền
tệ
Quốc
tế
(IMF)
cho
rằng:
“Kinh
tế
thế
giới
đang
ở
trong
trạng
thái
hiểm
nghèo”.
Tuy
vậy,
cũng
có
dự
báo
về
khả
năng
phục
hồi
kinh
tế
của
các
nước
lớn,
khu
vực
Đông
Á
vẫn
dẫn
đầu
tốc
độ
tăng
trưởng
kinh
tế,
chuyển
dịch
thành
trung
tâm
phát
triển
kinh
tế
thế
giới.
Trong
bối
cảnh
đó,
Báo
cáo
đầu
tư
quốc
tế
2011
của
Diễn
đàn
Thương
mại
và
Phát
triển
của
Liên
hiệp
quốc
(
UNCTAD)
dự
báo
FDI
quốc
tế
năm
2012
là
1.700
tỷ
USD,
cao
hơn
năm
2011
(1.400-1.600
tỷ
USD).
Trong
khi
đó,
con
số
này
của
năm
2013
là
1.900
tỷ
USD,
bằng
năm
cao
nhất
-
2007.
Lần
đầu
tiên
FDI
vào
các
nước
đang
phát
triển
và
đang
chuyển
đổi
chiếm
gần
50%
FDI
thế
giới.
Việt
Nam
được
chuyên
gia
kinh
tế
đánh
giá
là
quốc
gia
dễ
bị
tổn
thương
nhất
trong
các
nền
kinh
tế
châu
Á
trước
sự
biến
động
của
kinh
tế
thế
giới,
vì
tình
trạng
lạm
phát
cao,
doanh
nghiệp
chưa
đủ
mạnh,
thâm
hụt
ngân
sách
lớn
và
hoạt
động
của
hệ
thống
ngân
hàng
còn
tiềm
ẩn
nhiều
rủi
ro.
Năm
2012,
nền
kinh
tế
nước
ta
vừa
phải
khắc
phục
hậu
quả
của
năm
2011,
vừa
bắt
đầu
tái
cơ
cấu
kinh
tế
theo
mô
hình
tăng
trưởng
mới.
Việt
Nam
đồng
thời
đứng
trước
thời
cơ
lớn
khi
quan
hệ
đối
ngoại
với
các
nước
lớn
như
Mỹ,
Nhật
Bản,
EU,
Ấn
Độ
được
nâng
cấp;
ASEAN
đang
tiến
tới
Cộng
đồng
chung.
Việt
Nam
không
chỉ
được
nhiều
nhà
đầu
tư
nhận
định
là
có
ưu
thế
về
ổn
định
chính
trị,
an
ninh
xã
hội,
mà
trước
tình
hình
thiên
tai,
như
động
đất
và
sóng
thần
ở
Nhật
Bản,
lũ
lụt
kéo
dài
nhiều
tháng
ở
Thái
Lan,
cũng
đã
được
nhiều
doanh
nghiệp
nước
ngoài
lựa
chọn
là
địa
điểm
đầu
tư
thích
hợp
để
bảo
đảm
hoạt
động
sản
xuất
và
kinh
doanh
lâu
dài.
Cần
khẳng
định
rằng,
FDI
tiếp
tục
là
nguồn
vốn
quốc
tế
quan
trọng
nhất
đối
với
Việt
Nam,
khi
viện
trợ
phát
triển
(ODA)
đang
có
xu
hướng
giảm,
khi
đầu
tư
gián
tiếp
khá
bấp
bênh.
Chính
phủ
cần
đưa
ra
thông
điệp
rõ
ràng
về
định
hướng
FDI
mới
chuyển
sang
chính
sách
nâng
cấp
FDI,
coi
trọng
hơn
chất
lượng
và
hiệu
quả
kinh
tế
-
xã
hội.
Chính
sách
nâng
cấp
FDI
được
hình
thành
theo
các
hướng
ưu
tiên
dự
án
công
nghệ
cao,
công
nghệ
thân
thiện
với
môi
trường,
công
nghiệp
phụ
trợ,
dịch
vụ
hiện
đại,
xây
dựng
khu
kinh
tế
đặc
biệt,
thiết
lập
mối
liên
kết
giữa
các
tập
đoàn
xuyên
quốc
gia
(TNCs)
hàng
đầu
thế
giới
từ
các
nước
thuộc
Tổ
chức
Hợp
tác
và
Phát
triển
kinh
tế
(OECD)
với
doanh
nghiệp
trong
nước
nhằm
làm
cho
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
được
hưởng
lợi
nhờ
vào
hợp
tác,
phân
công
về
công
nghệ
và
thị
trường
với
TNCs;
khuyến
khích
TNCs
hợp
tác
với
các
cơ
sở
đào
tạo
bậc
đại
học
và
dạy
nghề
trình
độ
cao,
các
tổ
chức
nghiên
cứu
khoa
học
để
nâng
cao
trình
độ
và
năng
lực
của
các
đơn
vị
đó.
Đổi
mới
đồng
bộ
để
nâng
chất
dòng
vốn
FDI
Trên
cơ
sở
định
hướng
FDI
mới,
cần
đổi
mới
đồng
bộ
về
thể
chế,
luật
pháp,
công
tác
quy
hoạch,
quản
lý
nhà
nước
như
xúc
tiến
đầu
tư,
thẩm
định,
cấp
phép,
hướng
dẫn,
triển
khai
dự
án,
theo
dõi,
hỗ
trợ,
kiểm
tra,
giám
sát
hoạt
động
sản
xuất
-
kinh
doanh,
cải
tiến
phân
cấp
quản
lý,
thiết
lập
hệ
thống
thu
thập
và
xử
lý
thông
tin
về
FDI.
Bên
cạnh
đó,
Luật
Doanh
nghiệp
năm
2005
cần
được
sửa
đổi
cơ
bản
bởi
vì
đã
bộc
lộ
nhiều
nhược
điểm
đang
cản
trở
hoạt
động
FDI.
Một
số
chuyên
gia
kiến
nghị,
xây
dựng
Luật
Doanh
nghiệp
mới
với
những
điều
khoản
đáp
ứng
đòi
hỏi
đầu
tư,
kinh
doanh
và
hội
nhập
quốc
tế
trong
giai
đoạn
mới,
đủ
chi
tiết
để
điều
chỉnh
hành
vi
của
doanh
nghiệp.
Nghị
định
của
Chính
phủ
chỉ
để
hướng
dẫn
thi
hành
luật,
không
chứa
đựng
nội
dung
luật
như
hiện
nay,
tốt
nhất
là
không
có
thông
tư
của
các
bộ.
Đối
với
Luật
Đầu
tư
năm
2005,
nhiều
ý
kiến
nhận
xét
rằng,
nội
dung
của
luật
này
trùng
lặp
với
nhiều
luật
khác,
do
vậy
nên
hình
thành
Chương
Đầu
tư
trong
Luật
Doanh
nghiệp,
bởi
vì
đầu
tư
là
hoạt
động
chính
của
doanh
nghiệp.
Cũng
có
ý
kiến
cho
rằng,
trong
Luật
Doanh
nghiệp
và
Luật
Đầu
tư
năm
2005
không
chú
ý
đặc
điểm
của
FDI
và
doanh
nghiệp
FDI,
nên
đã
không
điều
chỉnh
được
mọi
hành
vi
liên
quan
đến
FDI,
làm
giảm
hiệu
năng
quản
lý
nhà
nước
đối
với
khu
vực
kinh
tế
này.
Do
vậy,
Luật
Doanh
nghiệp
mới
cần
khắc
phục
nhược
điểm
đó.
Hơn
thế,
trước
thực
trạng
nhiều
doanh
nghiệp
FDI
đang
gặp
khó
khăn
do
tác
động
từ
khủng
hoảng
kinh
tế
thế
giới
và
lạm
phát
cao
trong
nước,
thì
Chính
phủ
và
chính
quyền
các
cấp
cần
tiếp
cận,
hướng
dẫn,
hỗ
trợ
doanh
nghiệp
vượt
qua
tình
trạng
kinh
doanh
kém
hiệu
quả.
Đó
chính
là
cách
xúc
tiến
đầu
tư
tốt
nhất,
vì
chính
các
doanh
nghiệp
này
sẽ
quảng
bá
rộng
rãi
chính
sách
và
phương
thức
hoạt
động
của
bộ
máy
nhà
nước
ra
bên
ngoài.
Các
cuộc
vận
động
đầu
tư
cần
hướng
chủ
yếu
vào
500
TNCs
hàng
đầu
thế
giới
đối
với
dự
án
công
nghệ
cao,
dịch
vụ
hiện
đại,
nghiên
cứu
và
phát
triển,
đào
tạo
nguồn
nhân
lực
chất
lượng
cao,
thường
xuyên
cập
nhật
thông
tin
về
điều
kiện
đảm
bảo
đầu
tư
theo
yêu
cầu
của
từng
TNCs
thay
cho
những
cuộc
hội
thảo
đông
người
kém
hiệu
quả.
Sau
khủng
hoảng
kinh
tế
thế
giới,
TNCs
điều
chỉnh
thị
trường
đầu
tư,
có
thể
Việt
Nam
không
còn
được
lựa
chọn
hoặc
được
đưa
vào
diện
ưu
tiên,
do
đó
cần
theo
dõi
để
biết
được
chiến
lược
đầu
tư
mới
của
TNCs.
Các
bộ
lập
và
công
bố
quy
hoạch
ngành
kinh
tế
-
kỹ
thuật
đủ
chi
tiết,
gắn
với
quy
hoạch
vùng
lãnh
thổ,
xây
dựng
tiêu
chuẩn,
định
mức
để
hướng
dẫn
chính
quyền
địa
phương
thực
hiện,
bảo
đảm
việc
phân
cấp
quản
lý
vừa
phát
huy
được
tính
năng
động,
sáng
kiến
của
tỉnh,
thành
phố,
vừa
bảo
vệ
lợi
ích
quốc
gia.
Trên
cơ
sở
đó,
chuyển
trọng
tâm
quản
lý
nhà
nước
đối
với
FDI
sang
hướng
dẫn,
theo
dõi,
kiểm
tra
doanh
nghiệp
khi
đưa
dự
án
đầu
tư
vào
hoạt
động
theo
đúng
quy
định
luật
pháp.
Hiện
nay,
Cục
Đầu
tư
nước
ngoài
(Bộ
Kế
hoạch
và
Đầu
tư)
đang
xây
dựng
Trung
tâm
Thông
tin
được
nối
mạng
với
các
sở
kế
hoạch
và
đầu
tư,
ban
quản
lý
KCN,
KKT,
doanh
nghiệp
FDI,
hải
quan,
cơ
quan
thuế,
ngân
hàng
để
khắc
phục
nhược
điểm
thiếu
thông
tin,
không
cập
nhật,
nhằm
đánh
giá
đúng
thực
trạng
và
đề
ra
giải
pháp
xử
lý
kịp
thời
đối
với
hoạt
động
FDI
trong
cả
nước.
Đây
là
điều
đáng
mừng.
Bài
học
thành
công
và
thất
bại
trong
kinh
tế
thị
trường,
hội
nhập
quốc
tế,
trong
đó
có
thu
hút
FDI
là
tài
sản
quý
giá
để
người
Việt
Nam
khôn
ngoan
hơn,
để
tiếp
nhận
vốn
đầu
tư
quốc
tế
có
hiệu
quả
hơn
và
phát
triển
bền
vững
hơn.