Bảo
quản
sau
thu
hoạch
còn
yếu
khiến
cho
chất
lượng
nhiều
mặt
hàng
trái
cây
của
Việt
Nam
bị
giảm
sút
khi
đưa
ra
thị
trường
(ảnh
minh
họa:
internet)
Theo
TS. Nguyễn
Quốc
Vọng, vấn
đề Việt
Nam
mắc
phải
trong
việc
áp
dụng
công
nghệ
cao
là
cách
áp
dụng
quá
máy
móc,
bê
nguyên
xi
mô
hình
của
nước
ngoài
về
mà
không
quan
tâm đếnđiều
kiện
thổ
nhưỡng
ở
Việt
Nam. Ví
dụ:
mô
hình
nhà
kính
của
Israel
được
sử
dụng
tại
bản
xứ
vì
điều
kiện
khô
hạn,
thiếu
nước
trầm
trọng.
Trong
khi
Việt
Nam
là
xứ
nhiệt
đới
nóng
ẩm
mưa
nhiều.
Nếu
đem
mô
hình
này
về
Việt
Nam,
nhất
thiết
phải
có
những
điều
chỉnh
cho
phù
hợp.
Một
nguyên
nhân
khác
được
TS
Vọng
phân
tích,
đó
là việc
áp
dụng
công
nghệ
nửa vời, không
đồng
bộ, hiểu
biết
về
công
nghệ
còn
thiếu
và
việc
áp
dụng
sai
phương
pháp... dẫn
đến
đầu
tư
thiếu
hiệu
quả.
Để
sản
phẩm
nông
nghiệp
có
chất
lượng
tốt,
năng
suất
cao
là
kết
quả
của
cả
một
chuỗi
giá
trị,
bao
gồm
chọn
giống,
làm
đất,
gieo
trồng,
chăm
sóc,
thu
hoach,
sau
thu
hoạch
và
ra
thị
trường.
Nếu
chỉ
đầu
tư
công
nghệ
ở
1
vài
khâu
cũng
sẽ
không
đảm
bảo
chất
lượng
sản
phẩm. Điều
này lý
giải
vì
sao
có nhiều
nơi
làm nông
nghiệp công
nghệ cao
nhưng
trở
nên
đìu
hiu
vì
thất
bại.
Vì
thế, TS. Vọng
cho
rằng,
với
nội
lực
hiện
nay, Việt
Nam
nên
xem
xét
xem
làm
nông
nghiệp
cao
cỡ
nào
thì
vừa
sức.
Trong
đó, ông
Vọng
nhấn
mạnh, không
chạy
theo
năng
suất, quan
trọng
nhất
Việt
Nam
cần
là
nâng
cao
được
chất
lượng
sản
phẩm.
“Phải
ứng
dụng
công
nghệ,
cao
thì
tốt,
vừa
cũng
được
nhưng
phải
đồng
bộ
và
xuyên
suốt.
Nông
sản
Việt
Nam
phải
là
chất
lượng
hơn
là
số
lượng”,
ông
Vọng
nói.