ĐBSCL:
Coi
thách
thức
là
động
lực
để
chuyển
đổi
mô
hình
tăng
trưởng
Thứ
năm
-
24/12/2020
09:48
Lần
đầu
tiên
bản
Quy
hoạch
vùng
ĐBSCL
được
triển
khai
thực
hiện
theo
cách
tiếp
cận
tích
hợp
đa
ngành
của
Luật
Quy
hoạch,
tới
thời
điểm
này
cơ
bản
đã
hoàn
thành
và
đề
xuất
nhiều
nội
dung
mới
về
quan
điểm,
mục
tiêu,
phương
hướng
phát
triển
cho
vùng.
Theo
Bộ
KH-ĐT,
khung
định
hướng
phát
triển
vùng
ĐBSCL
thời
kỳ
2021
–
2030,
tầm
nhìn
đến
năm
2050,
có
5
quan
điểm
phát
triển:
1
–
Phát
triển
bền
vững:
Duy
trì
vai
trò
là
nguồn
sống
cho
môi
trường
và
con
người
sống
ở
đồng
bằng
và
chú
trọng
phát
triển
văn
hóa,
xã
hội
để
đảm
bảo
phát
triển
bền
vững.
2
–
Biến
thách
thức
thành
cơ
hội:
Coi
các
thách
thức
là
động
lực
để
chuyển
đổi
mô
hình
tăng
trưởng
theo
hướng
gia
tăng
hiệu
quả
và
giá
trị
đối
với
các
hoạt
động
phát
triển.
3
–
Phát
triển
tập
trung:
Tập
trung
phát
triển
cụm
ngành
kinh
tế
nông
nghiệp
và
vùng
đô
thị
hoá.
4
–
Liên
kết
vùng:
Xác
định
những
định
hướng
và
ưu
tiên
phát
triển
rõ
ràng
của
toàn
vùng
và
từng
tiểu
vùng,
tạo
cơ
sở
để
các
địa
phương
trong
vùng
sẽ
có
phương
hướng
để
nâng
cao
liên
kết,
cùng
hướng
tới
mục
tiêu
phát
triển
chung.
5
–
Tập
trung
vào
phát
triển
hạ
tầng:
Ưu
tiên
phát
triển
kết
cấu
hạ
tầng
giao
thông,
hạ
tầng
liên
quan
tổng
hợp
tài
nguyên
nước,
phòng
chống
thiên
tai
và
thích
ứng
biến
đổi
khí
hậu
(BĐKH).
Quan
điểm
tổng
thể
về
phát
triển
vùng
ĐBSCL
trong
thời
kỳ
tiếp
theo
là
ưu
tiên
cao
nhất
cho
việc
phát
triển
bền
vững
trên
cả
ba
trụ
cột
kinh
tế
–
xã
hội
–
môi
trường.
Theo
đề
xuất
này
–
Mạng
lưới
ABCD
Mekong
có
chức
năng,
vai
trò
như
sau:
Cần
Thơ có
chức
năng
chính:
Tổng
hợp
quản
lý
hành
chính,
thương
mại,
đào
tạo,
R&D,
chuyển
giao
công
nghệ
và
các
sản
phẩm
cao
cấp.
Vùng
nguyên
liệu
của
trung
tâm
đầu
mối
Cần
Thơ
sẽ
bao
trùm
toàn
vùng
ĐBSCL.
Khu
vực
xung
quanh
cảng
Cái
Cui,
Tân
Phú,
Cần
Thơ
sẽ
kết
nối
đường
thủy
nội
địa,
đường
bộ
và
đường
hàng
không.
Bến
Tre có
chức
năng
chính:
Các
sản
phẩm
trái
cây
và
rau
màu.
Vùng
nguyên
liệu
chủ
đạo
là
khu
vực
Long
An,
Tiền
Giang
và
Bến
Tre.
Đề
xuất
vị
trí:
khu
vực
xung
quanh
KCN
Giao
Long,
Châu
Thành.
Kết
nối
chính:
đường
thủy
nội
địa
và
đường
bộ.
An
Giang có
chức
năng
chính:
Sản
phẩm
lúa
gạo
và
thủy
sản.
Vùng
nguyên
liệu:
Tứ
giác
Long
Xuyên,
Nam
Sông
Hậu
và
Đồng
Tháp
Mười,
thậm
chí
Campuchia
và
Thái
Lan.
Đề
xuất
vị
trí:
khu
vực
xung
quanh
KCN
Mỹ
Thới.
Kết
nối
chính:
đường
thủy
nội
địa
và
đường
bộ.
Đồng
Tháp chức
năng
chính:
Là
trung
tâm
đầu
mối
trái
cây,
hoa,
rau,
cây
cảnh
và
thủy
sản
nước
ngọt,
là
vùng
nguyên
liệu
ổn
định
tại
chỗ.
Vị
trí
được
đề
xuất
là
khu
vực
xung
quanh
KCN
Trần
Quốc
Toản,
Cao
Lãnh.
Giao
thông
kết
nối
chính
là
đường
thủy
nội
địa
và
đường
bộ.
Các
trục
liên
kết
mở
rộng:
Kiên
Giang có
chức
năng
chính:
Thủy
hải
sản.
Nhu
cầu
phát
triển
cân
bằng
kinh
tế
vùng
kết
hợp
du
lịch
và
an
ninh
quốc
phòng.
Vùng
nguyên
liệu:
bờ
biển
Kiên
Giang,
Rạch
Giá
và
Hà
Tiên.
Đề
xuất
vị
trí:
xung
quanh
KCN
Thạnh
Lộc,
Rạch
Sỏi.
Kết
nối
chính:
đường
thủy
nội
địa,
đường
bộ
và
đường
hàng
không.
Hậu
Giang có
chức
năng
chính:
Thu
gom
sơ
chế
và
hỗ
trợ
logistics.
Vùng
nguyên
liệu:
Sóc
Trăng,
Bạc
Liêu
và
Kiên
Giang.
Đề
xuất
vị
trí:
xung
quanh
TP
Vị
Thanh.
Kết
nối
chính:
đường
thủy
nội
địa
và
đường
bộ.
Cà
Mau có
chức
năng
chính:
Kinh
tế
nông
nghiệp
và
an
ninh
quốc
phòng.
Điểm
chốt
cực
nam
gắn
chặt
với
sản
phẩm
bán
đảo
Cà
Mau
là
thủy
sản
nước
mặn.
Vùng
nguyên
liệu:
bán
đảo
Cà
Mau.
Đề
xuất
vị
trí:
xung
quanh
khu
cảng
Điện
đạm
Cà
Mau,
TP
Cà
Mau.
Kết
nối
chính:
đường
thủy
nội
địa,
đường
bộ
và
đường
hàng
không.
Sóc
Trăng có
chức
năng
chính:
Thu
gom
sản
phẩm
chủ
yếu
là
từ
đánh
bắt,
cảng
tàu
đánh
cá.
Phân
loại
và
sơ
chế
hải
sản.
Vùng
nguyên
liệu:
ngư
trường
bờ
Đông.
Đề
xuất
vị
trí:
khu
vực
cảng
cá
Trần
Đề
và
KCN
Trần
Đề.
Kết
nối
chính:
đường
thủy
nội
địa
và
đường
bộ.
Nguyên
Phó
Chủ
tịch
UBND
tỉnh
Đồng
Tháp
Nguyễn
Thanh
Hùng:
Xây
dựng
kịch
bản
để
không
phải
đánh
đổi
Quan
điểm
tiếp
cận
với
cách
chia
ba
vùng
ngọt,
lợ,
mặn
so
với
cách
chia
trước
đây
chỉ
vùng
ngọt
và
mặn
là
điểm
hoàn
toàn
mới
và
phản
ánh
đúng
những
diễn
biến
mới
về
môi
trường
và
biến
đổi
khí
hậu
ngày
càng
cực
đoan.
Tuy
nhiên,
trong
quá
trình
lập
quy
hoạch
chúng
ta
cần
đánh
giá
và
xây
dựng
lộ
trình
chuyển
đổi
thích
hợp,
nhất
là
việc
chuyển
đổi
giữa
hạ
tầng
phục
vụ
sản
xuất,
sinh
hoạt
và
chuyển
đổi
sinh
kế.
Đồng
Tháp
đã
chuẩn
bị
và
chuyển
đổi
bước
đầu
trong
việc
định
hướng
phát
triển
hạ
tầng
thủy
lợi
phục
vụ
phát
triển
nông
nghiệp
(hạn
chế
cứng
hóa
ô
bao
ở
những
nơi
không
cần
thiết,
hạn
chế
canh
tác
lúa
vụ
ba,
xả
lũ
vào
đồng
ruộng…)
và
chuyển
đổi
sinh
kế
cho
người
dân.
Bản
chất
quy
hoạch
tích
hợp
là
tập
hợp
nhiều
nội
dung,
nhận
diện
mâu
thuẫn
để
giải
quyết
các
vấn
đề
đặt
ra
giữa
các
ngành,
các
địa
phương.
Trong
đó
có
nội
dung
quy
hoạch
(hạ
tầng
thủy
lợi
–
giao
thông
thủy,
sạt
lở
–
khai
thác
vật
liệu
xây
dựng
–
phát
triển
đô
thị…).
Do
đó,
nội
dung
của
quy
hoạch
cần
nhấn
mạnh
đến
mục
tiêu,
lượng
hóa
các
rủi
ro
và
xây
dựng
kịch
bản
để
không
phải
đánh
đổi.
Trong
quy
hoạch
vùng,
sự
đánh
đổi
lợi
ích
giữa
các
địa
phương
trong
quá
trình
phát
triển
cần
được
xem
xét
và
có
cơ
chế
phối
hợp,
điều
phối
vùng
để
giải
quyết.
Phó
chủ
tịch
UBND
tỉnh
An
Giang
Lê
Văn
Phước:
Ưu
tiên
phát
triển
hạ
tầng
–
đặc
biệt
là
hạ
tầng
giao
thông
Quy
hoạch
vùng
được
thực
hiện
nghiêm
túc
và
hết
sức
công
phu,
phản
ánh
bức
tranh
tổng
thể
phát
triển
của
vùng
ĐBSCL
thời
gian
qua
và
định
hướng
phát
triển
của
vùng
thời
gian
tới
phù
hợp
với
định
hướng
của
Chính
phủ
về
phát
triển
bền
vững
ĐBSCL
thích
ứng
với
BĐKH
theo
Nghị
quyết
120.
Về
hiện
trạng
của
vùng,
dự
thảo
đã
phân
tích
và
đánh
giá
hiện
trạng
hết
sức
đầy
đủ,
chính
xác
và
cụ
thể
về
vùng
ĐBSCL
được
thể
hiện
qua
các
điểm
mạnh
điểm
yếu,
thời
cơ
và
thách
thức.
Tuy
nhiên,
tỉnh
An
Giang
bổ
sung
thêm
một
số
nội
dung.
Điểm
mạnh:
nguồn
lao
động
dồi
dào
(dân
số
đông),
có
vị
trí
thuận
lợi
để
hợp
tác
kinh
tế
với
các
nước
ASEAN.
Điểm
yếu:
Cơ
sở
hạ
tầng
đặc
biệt
là
hạ
tầng
giao
thông
yếu
và
thiếu
(chất
lượng
đường
bộ
kém,
không
đồng
bộ,
hệ
thống
đường
cao
tốc
chưa
phát
triển).
Cho
nên,
vấn
đề
cần
ưu
tiên
hiện
nay
đối
với
vùng
ĐBSCL
là
tập
trung
vào
phát
triển
hạ
tầng
–
đặc
biệt
là
hạ
tầng
giao
thông.
Vấn
đề
sạt
lở
ở
ĐBSCL
đang
diễn
ra
hết
sức
phức
tạp
với
tần
suất
ngày
càng
tăng,
ảnh
hưởng
nghiêm
trọng
đến
đời
sống
người
dân.
Tuy
nhiên,
vấn
đề
này
chưa
được
đề
cập
trong
dự
thảo
quy
hoạch.
Ngoài
ra,
ĐBSCL
có
đường
biên
giới
dài
tiếp
giáp
với
Campuchia
thuận
lợi
cho
việc
phát
triển
kinh
tế
biên
mậu.
Vì
vậy,
dự
thảo
Quy
hoạch
vùng
cần
quan
tâm
đến
vấn
đề
kinh
tế
biên
mậu
là
động
lực
để
thúc
đẩy
kinh
tế
–
xã
hội
của
vùng.
Xây
dựng
cực
tăng
trưởng
chủ
đạo
của
vùng
kinh
tế
trọng
điểm
ĐBSCL,
trong
đó
đô
thị
Cần
Thơ
là
trung
tâm
và
An
Giang
là
trung
tâm
thứ
hai
cung
cấp
các
sản
phẩm
nông
nghiệp
công
nghệ
cao
với
thành
phố
Long
Xuyên
là
đô
thị
phân
phối
gắn
kết
trung
tâm
vùng
ĐBSCL,
TP.HCM
và
thủ
đô
Phnom
Penh.
Thành
phố
Châu
Đốc
là
trung
tâm
dịch
vụ
của
tuyến
đường
bộ
hành
lang
kinh
tế
biên
giới
Tây
Nam
(sau
Tây
Ninh).
Phát
triển
mạnh
khu
vực
hạ
lưu
sông
Mekong,
trong
đó
có
các
đô
thị
ven
sông
Hậu
và
sông
Tiền
đi
qua
là
vệ
tinh.
Việc
xác
định
vùng
đô
thị
tập
trung
cần
chú
trọng
liên
kết
phát
triển
giữa
đô
thị
và
nông
thôn
trong
đặc
điểm
vùng
ĐBSCL
với
tỷ
lệ
đô
thị
hóa
đến
năm
2020
đạt
khoảng
40%
và
năm
2030
đạt
khoảng
45%.
Phó
chủ
tịch
UBND
tỉnh
Bến
Tre
Nguyễn
Trúc
Sơn:
Giao
thông
thủy
và
năng
lượng
sạch
Thời
gian
qua,
vùng
ĐBSCL
tập
trung
phát
triển
giao
thông
đường
bộ,
ít
quan
tâm
phát
triển
vận
tải
thủy,
vốn
có
lợi
thế
rất
lớn
của
vùng
với
hệ
thống
sông,
kênh
rạch
chằng
chịt.
Để
góp
phần
khai
thác
lợi
thế
rất
lớn
của
vùng,
đề
nghị
Bộ
KH-ĐT
và
đơn
vị
tư
vấn
xem
xét
Quy
hoạch
hạ
tầng
giao
thông
đường
thủy
cho
cả
vùng
–
đồng
bộ
và
hiệu
quả
hơn.
Đối
với
tỉnh
Bến
Tre,
đề
nghị
được
bổ
sung
phương
án
xây
dựng
một
cảng
nước
sâu
ngoài
khơi
và
cảng
chuyên
dùng
phục
vụ
Trung
tâm
điện
khí
LNG
Bến
Tre.
Về
định
hướng
phát
triển
năng
lượng,
công
nghiệp:
Hiện
nay,
Bến
Tre
có
19
dự
án
điện
gió
đã
được
Trung
ương
phê
duyệt
quy
hoạch
với
công
suất
1.007,7
MW,
trong
đó
có
6
dự
án
đang
triển
khai,
dự
kiến
hoàn
thành
trong
năm
2021.
Đang
trình
bổ
sung
quy
hoạch
7
dự
án
điện
mặt
trời
với
công
suất
336,98MW
và
2
Nhà
máy
điện
khí
(LNG)
với
công
suất
7.050MW.
Bến
Tre
có
tiềm
năng
và
đủ
điều
kiện
để
phát
triển
ngành
công
nghiệp
năng
lượng
sạch,
truyền
tải
điện
thuận
lợi
vì
ưu
thế
gần
TP.
HCM
và
các
tỉnh
động
lực
kinh
tế
phía
nam.
Vì
vậy,
đề
nghị
Bộ
KH-ĐT,
đơn
vị
tư
vấn
xem
xét
cho
bổ
sung
vào
Quy
hoạch
vùng
ĐBSCL
một
số
dự
án
điện
gió,
điện
khí,
trạm
220
kv
và
đường
dây
truyền
tải
500
kv
của
tỉnh.
Về
thích
ứng
với
biến
đổi
khí
hậu,
cấp
nước
và
môi
trường:
Để
chủ
động
ứng
phó
trong
điều
kiện
hạn
mặn
và
an
ninh
nguồn
nước,
Bến
Tre
đã
phối
hợp
tỉnh
Tiền
Giang,
Long
An
đề
xuất
dự
án:
Trạm
bơm
nước
thô
Cái
Bè
và
hệ
thống
truyền
tải
với
công
suất
giai
đoạn
1
khoảng
300.000m3/ngày
đêm.
Song
song
đó,
tỉnh
đang
thực
hiện
thủ
tục
chuẩn
bị
đầu
tư
dự
án
hồ
chứa
nước
ngọt
Lạc
Địa
(xã
Phú
Lễ,
huyện
Ba
Tri)
với
quy
mô
121
ha
(khoảng
2
triệu
m3).
Vì
vậy,
đề
nghị
Bộ
Kế
hoạch
và
đầu
tư,
đơn
vị
tư
vấn
xem
xét
bổ
sung
các
dự
án
nêu
trên
vào
Khung
định
hướng
quy
hoạch
cấp
nước
nhằm
bổ
sung
nguồn
nước
ngọt
(nước
thô)
liên
vùng
và
của
tỉnh.
PGS
TS
Lê
Anh
Tuấn,
Phó
Viện
trưởng
Viện
Nghiên
cứu
Biến
đổi
khí
hậu
–
trường
ĐH
Cần
Thơ:
Quy
hoạch
để
không
tạo
ra
xung
đột
Đây
là
lần
đầu
tiên
ĐBSCL
có
quy
hoạch
đa
ngành
ở
cấp
khu
vực.
Quy
hoạch
lần
này
thực
hiện
theo
các
định
hướng
chiến
lược
của
Nghị
quyết
120
nên
sẽ
giải
quyết
được
rất
nhiều
vấn
đề
nội
tại
của
ĐBSCL.
Các
tỉnh
sẽ
căn
cứ
vào
Quy
hoạch
tích
hợp
để
làm
quy
hoạch
cho
địa
phương
mình.
Đây
là
nền
tảng
cho
các
địa
phương
phát
triển
kế
hoạch
của
mình
mà
không
phải
tạo
ra
xung
đột
liên
quan
tới
ngành,
liên
ngành
hay
giữa
các
địa
phương
với
nhau.
Quy
hoạch
tích
hợp
sẽ
rà
soát
lại
toàn
bộ
thử
thách
và
nguy
cơ
của
ĐBSCL
hiện
nay
và
trong
tương
lai.
Ths
Nguyễn
Hữu
Thiện,
chuyên
gia
độc
lập
về
sinh
thái
ĐBSCL:
Không
hối
tiếc
trong
quy
hoạch
Áp
dụng
nguyên
tắc
“Không
hối
tiếc
trong
quy
hoạch
ĐBSCL”
vì
bối
cảnh
không
chắc
chắn
về
tình
hình
BĐKH
và
nước
biển
dâng.
Hơn
nữa,
hành
động
thích
ứng
có
thể
đúng,
có
thể
sai,
có
thể
lợi
về
trước
mắt
mà
hại
về
lâu
dài.
Lợi
dễ
nhận
thấy
nhưng
hại
khó
nhận
ra,
lợi
hẹp
mà
hại
rộng.
Hơn
nữa,
nguồn
lực
bao
giờ
cũng
hạn
chế
nên
cần
phải
ưu
tiên
hóa.
Trong
đó
ưu
tiên
giải
quyết
vấn
đề
sụt
lún,
nước
biển
dâng,
cũng
như
vấn
đề
về
nguồn
nước.
ĐBSCL
là
nơi
sinh
sống,
nét
văn
hóa
sông
nước
chứ
không
chỉ
là
nơi
sản
xuất.
Những
việc
cần
ưu
tiên
cho
ĐBSCL
là
chuyển
hóa
nền
nông
nghiệp
theo
hướng
giảm
lượng,
tăng
chất,
tăng
chế
biến,
tăng
chuỗi
giá
trị.
Vùng
ĐBSCL
cần
có
hệ
thống
logistics
tốt
hơn,
giao
thông
kết
nối
và
thị
trường
tốt
hơn.
Quy
hoạch
vùng
ĐBSCL
sau
khi
được
phê
duyệt
sẽ
là
cơ
sở
cho
việc
điều
phối
liên
kết
phát
triển
vùng
và
phân
bổ
nguồn
lực
một
cách
hiệu
quả.
Để
đảm
bảo
thực
hiện
quy
hoạch,
đòi
hỏi
sự
phối
hợp
chặt
chẽ
giữa
các
địa
phương
–
cụ
thể
hóa
quy
hoạch
vùng
trong
quá
trình
lập
quy
hoạch
–
cũng
như
trong
việc
phân
bổ
nguồn
lực
đầu
tư
và
xúc
tiến
đầu
tư
ở
từng
địa
phương.