Đó
là
một
ví
dụ
về
cách
mà
các
hãng
lớn
có
thể
tác
động
đáng
kể
lên
nền
kinh
tế.
Tuy
nhiên,
những
ví
dụ
tương
tự
thường
không
được
quan
tâm
trong
các
mô
hình
kinh
tế,
hoặc
cho
rằng
sự
tăng
và
giảm
của
các
công
ty
sẽ
tự
động
triệt
tiêu
lẫn
nhau.
Song,
các
nhà
kinh
tế
cho
rằng,
nên
theo
dõi
các
công
ty
lớn
nhất
thế
giới
để
cải
thiện
dự
báo
kinh
tế
thế
giới.
Tại
Mỹ,
có
khoảng
27
triệu
công
ty
và
Anh
có
khoảng
4,8
triệu
công
ty.
Mỗi
quốc
gia
giao
dịch
với
hàng
trăm
quốc
gia
khác
trong
hàng
trăm
ngành
công
nghiệp
và
do
đó
cũng
tạo
nên
hàng
ngàn
mối
quan
hệ
thương
mại,
và
ở
quy
mô
toàn
cầu,
đang
mạng
lưới
này
lên
đến
hàng
triệu
liên
kết.
Những
doanh
nghiệp
đơn
lẻ
trở
nên
không
quan
trọng
trong
tổng
thể
kinh
tế
toàn
cầu,
nhưng
những
cú
sốc
tổng
thể
của
các
doanh
nghiệp
lớn
nhất
có
thể
gây
ra
cú
sốc
cho
nền
kinh
tế
thế
giới.
Năm
2007,
một
ngân
hàng
Tây
Ban
Nha
đã
nghiên
cứu
về
cán
cân
thương
mại
của
các
nước
thuộc
Tổ
chức
Hợp
tác
và
Phát
triển
kinh
tế
(OECD).
Những
cú
sốc
chung
(của
cả
quốc
gia
hay
các
ngành
công
nghiệp
toàn
cầu)
chỉ
giải
thích
được
45%
các
biến
động.
Trên
thực
tế,
dòng
thương
mại
phân
bổ
cực
kì
tập
trung,
còn
hầu
hết
các
liên
kết
khác
không
mấy
quan
trọng.
Đối
với
Mỹ,
99%
dòng
chảy
thương
mại
chỉ
chiếm
25%
giá
trị
trao
đổi
thương
mại.
Nhưng
số
ít
lại
là
quan
trọng.
Dòng
thương
mại
giữa
25
nước
phát
triển
công
nghiệp
trung
bình
trong
nhóm
OECD
lại
giải
thích
cho
2/3
giá
trị
trao
đổi
thương
mại
và
riêng
100
nền
công
nghiệp
lớn
nhất
thế
giới
chiếm
85%
giá
trị
thương
mại.
Nghiên
cứu
ở
Nhật
Bản,
họ
tìm
thấy
độ
tập
trung
không
nhiều,
khi
5
công
ty
hàng
đầu
Nhật
Bản
chỉ
chiếm
20%
giá
trị
xuất
khẩu.
Điều
đó
cho
thấy
rằng,
thống
kê
tổng
thể
về
biến
động
thương
mại
có
thể
chỉ
xuất
phát
từ
sự
thay
đổi
hành
vi
của
một
doanh
nghiệp.
Nhưng
một
số
công
ty
chắc
chắn
có
ảnh
hưởng
đủ
lớn.
Khảo
sát
ở
Mỹ
năm
2008
cho
thấy,
981
công
ty
với
hơn
10.000
nhân
viên
đã
chiếm
1/4
tổng
số
việc
làm.
Ở
Hàn
Quốc,
một
mình
Samsung
đóng
góp
17%
kim
ngạch
xuất
khẩu
của
Hàn
Quốc
trong
năm
2011.
Phần
Lan
có
lẽ
là
ví
dụ
đặc
biệt
khi
sở
hữu
hãng
điện
thoại
khổng
lồ
Nokia
đóng
góp
tới
20%
kim
ngạch
xuất
khẩu
và
25%
tăng
trưởng
GDP
từ
năm
1998
đến
năm
2007.
Sử
dụng
so
sánh
thô
giữa
tổng
doanh
thu
hằng
năm
của
công
ty
so
với
GDP
một
quốc
gia, The
Economist đã
xác
định
được
hàng
loạt
các
công
ty,
tập
đoàn
có
ảnh
hưởng
lớn
đến
nền
kinh
tế
của
quốc
gia
tại
53
thị
trường,
có
lợi
nhuận
từ
9
tỷ
USD
(hãng
xe
Volvo
-
Thụy
Điển)
đến
161
tỷ
USD
như
Công
ty
AcerlorMittal
(Luxembourg).
Danh
sách
này
có
các
công
ty
tại
châu
Á
như
China
Mobile
(Hong
Kong
-
hơn
30
tỷ
USD),
PTT
(Thái
Lan
-
hơn
20
tỷ
USD,
Wilmar
International
(Singapore
-
hơn
18
tỷ
USD),
Sands
China
(Macau
-
hơn
12
tỷ
USD)
và
Samsung
(Hàn
Quốc
-
gần
10
tỷ
USD)...
Tập
đoàn
Samsung
được
ví
như
một
nền
kinh
tế
thứ
35
khi
cũng
tạo
ra
doanh
thu
còn
lớn
hơn
rất
nhiều
quốc
gia
khác
trên
thế
giới.
Bên
cạnh
đó,
các
công
ty
có
quy
mô
lớn
thường
có
xu
hướng
chi
phối
thị
trường. Theo
Reuters,
doanh
thu
của
các
công
ty
hàng
đầu
trong
lĩnh
vực
kinh
doanh
các
hàng
hóa
như
dầu,
than,
gạo...
cộng
lại
đạt
1,1
ngàn
tỷ
USD,
và
top
5
công
ty
dẫn
đầu
lĩnh
vực
này
đạt
doanh
thu
629
tỷ
USD,
bằng
doanh
thu
của
5
tổ
chức
tài
chính
lớn
nhất
thế
giới.
Số
lượng
doanh
nghiệp
tăng
lên
thì
biến
động
GDP
bởi
cú
sốc
của
doanh
nghiệp
khi
đó
có
thể
bị
triệt
tiêu.
Với
100
công
ty,
biến
động
sẽ
giảm
xuống
1/10
so
với
chỉ
có
một
công
ty.
Với
1
triệu
công
ty,
biến
động
giảm
xuống
một
phần
nghìn.
Kể
từ
khi
có
nhiều
công
ty
hơn,
những
cú
sốc
đối
với
toàn
bộ
nền
kinh
tế
gây
ra
từ
một
công
ty
cụ
thể
dường
như
cũng
biến
mất.
Đó
là
lý
thuyết,
ở
mức
độ
nào
đó.
Khi
sự
phân
bố
công
ty
theo
kiểu
"fat
tail"
(nghĩa
là
cùng
lúc
có
cả
nhiều
công
ty
lớn
và
nhỏ),
mối
quan
hệ
lý
thuyết
trên
bị
phá
vỡ.
Đại
học
New
York
kiểm
nghiệm
lại
lý
thuyết
mới
đối
với
dữ
liệu
của
100
công
ty
lớn
nhất
của
Mỹ
từ
năm
1951
đến
năm
2008.
Có
đến
48%
sự
biến
động
GDP
của
Mỹ
có
thể
được
giải
thích
bởi
tính
hiệu
quả
trong
hoạt
động
của
các
công
ty
lớn.
Những
gì
tốt
cho
GM
cũng
thực
sự
tốt
cho
nước
Mỹ,
nhưng
ngược
lại,
khi
các
công
ty
lớn
làm
ăn
không
tốt
thì
sẽ
ảnh
hưởng
đến
toàn
bộ
nền
kinh
tế.
Những
công
ty
thương
mại
đang
kiểm
soát
giá
cả
hàng
hóa
toàn
cầu,
đồng
thời
cũng
là
những
công
ty
trong
danh
sách
có
ảnh
hưởng
đến
nền
kinh
tế
quốc
gia
như
Wilmar
International
(Singapore)
có
doanh
thu
30
tỷ
USD
(2010),
kiểm
soát
gần
20%
thị
trường
kinh
doanh
ngũ
cốc,
đường,
dầu.
Hay Noble Group (Hồng Kông) có doanh thu lên tới 57 tỷ USD (2010) trong lĩnh vực đường, than, dầu. Noble từng hợp tác với Phibro. Hiện Noble điều hành công ty với hơn 11.000 nhân công...
Nguồn tin: DNSG
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập : 132
•Máy chủ tìm kiếm : 17
•Khách viếng thăm : 115
Hôm nay : 33600
Tháng hiện tại : 930940
Tổng lượt truy cập : 44298625