PHÁT
TRIỂN
RAU
VIETGAP
Theo
Cục
Trồng
trọt,
diện
tích
trồng
rau
cả
nước
đạt
823.728
ha,
năng
suất
khoảng
1,7
tấn/ha,
cho
sản
lượng
14
triệu
tấn/năm.
Trong
đó,
diện
tích
rau
an
toàn
16.769
ha.
Tính
đến
tháng
9/2012,
diện
tích
RAT
được
cấp
giấy
chứng
nhận
VietGAP
và
GlobalGAP
là
491
ha.
Trên
địa
bàn
TP.HCM và
một
số
tỉnh
lân
cận
như
Bình
Dương,
Bình
Phước,
Tiền
Giang…
đang
có
nhiều
mô
hình
trồng
RAT
tiêu
biểu
gắn SX
với
tiêu
thụ
sản
phẩm
rất
hiệu
quả.
Cụ
thể
như
HTXNN
Phước
An
(xã
Tân
Quý
Tây,
huyện
Bình
Chánh,
TP.HCM)
bắt
đầu
áp
dụng
quy
trình
SX
rau
VietGAP
từ
năm
2009
với
7
ha;
năm
2012
tăng
lên
17
ha,
sản
lượng
đạt
298
tấn/tháng;
đến
nay
đã
có
phân
nửa
diện
tích
RAT
được
chứng
nhận
VietGAP
với
13
hộ
SX.
Tương
tự,
tỉnh
Bình
Phước
cũng
đã
xây
dựng
và
hình
thành
được
các
Tổ
RAT
nhằm
liên
kết
và
hỗ
trợ
nhau
SX
theo
quy
trình
VietGAP
như
tổ
rau
Tân
Lập,
xã
Tân
Lập,
huyện
Đồng
Phú;
CLB
rau
an
toàn
Phú
Đức,
huyện
Bình
Long…
Diện
tích
rau
trong
các
tổ
SX
do
Chi
cục
BVTV
đầu
tư
làm
VietGAP
khoảng
13,5
ha
và
16
ha
rau an
toàn.
Ngoài
ra,
các
nông
hộ
tự
phát SX
RAT
đạt
khoảng
170
ha.
Mô
hình
tiêu
biểu
gắn SX
với
tiêu
thụ
RAT
có
hiệu
quả
cao
là
HTX
RAT
Gò
Công
(Tiền
Giang)
diện
tích
12,5
ha/42
hộ SX
các
chủng
loại
rau
xanh
trồng
theo
quy
trình
VietGAP
cho
lợi
nhuận
cao
hơn
so
với
rau
thường
từ
1,2
-
1,7
lần.
Ông
Lê
Thanh
Tùng,
Phó
trưởng
phòng
Cây
lương
thực
-
cây
thực
phẩm,
Cục
Trồng
trọt
cho
biết:
“RAT
là
cây
trồng
mang
lại
thu
nhập
khá
cao
cho
người
nông
dân,
phù
hợp
với
nền
nông
nhiệp
đô
thị,
được
nhiều
địa
phương
trong
cả
nước
khuyến
khích
SX.
Thực
tế
có
nhiều
mô
hình SX
rau
đạt
hiệu
quả
kinh
tế
cao,
cho
người
dân
có
mức
thu
nhập
từ
400
-
500
triệu
đ/ha/năm;
thậm
chí
có
nơi
còn
đạt
tới
700
-
800
triệu”.
Các
sản
phẩm
rau
VietGAP
Một
số
nơi
RAT
có
giá
cao
hơn
giá
rau
thông
thường
từ
10
-
20%
nên
đem
lại
thu
nhập
cao
cho
nông
dân
và
cao
hơn
nhiều
lần
so
với
trồng
lúa,
ngô
hay
một
số
cây
ngắn
ngày
khác.
Tuy
nhiên,
nhận
định
của
một
số
chuyên
gia
lại
cho
rằng,
thực
trạng SX
RAT
ở
nước
ta
vẫn
còn
gặp
nhiều
khó
khăn
và
bất
cập.
Đó
là
phần
lớn
giá
bán
các
sản
phẩm
RAT
và
rau
thông
thường
vẫn
chưa
có
sự
khác
biệt
nhiều
và
không
ổn
định.
Đồng
thời, SX
rau
thông
thường
cũng
như
RAT và
chủ
yếu
tiêu
thụ
theo
kênh
nhỏ
lẻ.
Người
trồng
rau
sau
khi
thu
hoạch
tự
mang
ra
các
chợ
bán
hoặc
chấp
nhận
bán
buôn
cả
ruộng
cho
thương
lái
với
mức
giá
thấp
hơn
so
với
bán
chợ
từ
20
-
30%.
Ngoài
ra,
còn
hình
thức
tiêu
thụ
rau
thông
qua
việc
ký
kết
hợp
đồng
nhưng
vẫn
còn
nhiều
hạn
chế.
BẤT
AN
Theo
khảo
sát
thực
tế
tại
một
số
địa
phương,
thực
trạng
SX
rau
xanh
còn
gặp
nhiều
khó
khăn
như
công
nghệ
còn
mang
tính
truyền
thống,
kỹ
thuật
lạc
hậu,
chưa
phân
biệt
được
giữa
sản
phẩm
an
toàn
và
sản
phẩm
không
an
toàn.
Nguyên
nhân
do
đa
số
RAT
chưa
có
nhãn
mác
hay
logo
chứng
minh
và
đầu
ra
cho
sản
phẩm
chưa
ổn
định.
Một
số
dự
án
trồng
rau
vẫn
còn
chạy
theo
lợi
ích
nhóm,
sản
phẩm
đầu
ra
của
RAT
chưa
thực
sự
an
toàn
cho
người
tiêu
dùng.
TS.Nguyễn
Công
Thành,
Viện KHKT
Nông
nghiệp miền
Nam
cho
biết:
Việc
xây
dựng
và
thực
hiện
các
dự
án SX
RAT
chưa
gắn
kết
hưu
cơ
giữa
SX
và
tiêu
thụ,
chưa
có
sự
liên
kết
“4
nhà”
giữa
dự
án
với
người SX,
nhà
quản
lý
và
DN
tiêu
thụ
sản
phẩm.
Có
những
dự
án
RAT
được
triểu
khai
rầm
rộ
nhưng
thực
chất
vẫn
chỉ
là
“treo
đầu
dê
bán
thịt
chó”.
Nhiều chương trình, dự án khi đầu tư thực hiện lại chưa có định hướng đầu ra cho nên khi có sản phẩm người dân vẫn phải “tự bơi. Do vậy khi kết thúc dự án, người dân không thấy lợi ích cụ thể, việc thực hiện quy trình an toàn của họ tốn nhiều công sức, chi phí nhưng cũng không được công nhận gây ra sự bất mãn trong SX.
Cũng
theo
ông
Thành,
chất
lượng
RAT
cần
phải
xem
xét
một
cách
nghiêm
túc
khi
chưa
đến
được
tận
bàn
ăn
của
người
tiêu
thụ
hàng
ngày
vì
số
lượng
còn
rất
khan
hiếm.
Hầu
hết
các
loại
rau
chưa
qua
kiểm
soát, SX
tự
phát
nên
chắc
chắn
không
đảm
bảo
an
toàn,
nhưng
người
tiêu
thụ
đành
nhắm
mắt
ăn
rau
mà
không
ý
thức
hết
được
mức
độ
ảnh
hưởng
đến
sức
khỏe
của
mình.
Thậm
chí
số
vụ
ngộ
độc
xảy
ra
hàng
ngày
do
sử
dụng
phải
nguồn
thực
phẩm
rau
có
ghi
trên
bao
bì
toàn
chữ
Trung
Quốc.
Chứng
tỏ
các
sản
phẩm
rau
có
nguồn
gốc
nhập
khẩu
không
an
toàn
và
không
hợp
pháp.
Còn
về
thực
trạng
SX rau
trong
nước
cũng
đang
ở
mức
báo
động.
Khi
báo
cáo
về
thực
trạng
sử
dụng
hóa
chất
trên
rau
tại
tỉnh
Kiên
Giang
do
Chi
cục
Quản
lý
chất
lượng
NLS&TS
tỉnh
này
cho
thấy
con
số
thật
kinh
hoàng.
Hầu
hết
người
dân
đều
biết
những
ảnh
hưởng
xấu
của
các
loại
thuốc
hóa
học
nhưng
họ
lại
cho
rằng
chẳng
có
giải
pháp
nào
thay
thế
(?).
Thực tế việc sử dụng thuốc hóa học bình quân khoảng 6,5 lần/vụ; thậm chí cao nhất sử dụng tới 15 lần/vụ với trên 24 loại thuốc sâu và 15 loại thuốc bệnh; đáng báo động là trong đó có cả những loại thuốc không khuyến cáo dùng cho rau. Đồng thời, nhiều hộ thu hoạch rau không đảm bảo đúng thời gian cách ly của thuốc.
Nguồn tin: NNVN
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập : 235
Hôm nay : 23243
Tháng hiện tại : 1496072
Tổng lượt truy cập : 42395884