"Với
phương
tiện
công
cộng
hiện
nay,
thu
phí
xe
cá
nhân
không
thể
làm
người
ta
ít
đi
xe,
giảm
ùn
tắc.
Tăng
thu
phí
chỉ
tiếp
tục
làm
giảm
thu
nhập
và
tăng
thêm
bức
xúc
của
dân".
Cựu
đại
biểu
Quốc
hội
Nguyễn
Minh
Thuyết
phân
tích.
Trước
hết,
chúng
ta
cần
bình
tĩnh
đánh
giá
nguyên
nhân
ùn
tắc
là
gì.
Dĩ
nhiên,
quy
lỗi
cho
phương
tiện
cá
nhân
phát
triển
quá
nhiều
là
dễ
nhất,
vì
điều
đó
rất
trực
quan.
Nhưng
đó
không
phải
nguyên
nhân
mà
chỉ
là
triệu
chứng.
Dẫn
đến
triệu
chứng
này
là
do
hàng
loạt
hạn
chế
về
chính
sách
của
Nhà
nước,
của
ngành
giao
thông
và
của
các
thành
phố.
Cụ
thể,
trong
hàng
chục
năm
qua,
đường
giao
thông
ở
nội
đô
các
thành
phố
lớn
không
được
phát
triển.
Báo
cáo
của
Chính
phủ
trình
Quốc
hội
tại
kỳ
họp
thứ
2
khóa
13
đánh
giá:
“Tỷ
lệ
quỹ
đất
dành
cho
giao
thông
vận
tải
còn
quá
thấp
(hiện
tại
chỉ
chiếm
khoảng
6-7%
diện
tích
đất
đô
thị)”.
Bên
cạnh
đó,
các
phương
tiện
giao
thông
công
cộng
ở
nội
đô
không
những
không
phát
triển
mà
còn
có
vẻ
thụt
lùi.
Chính
sách
phát
triển
kinh
tế
-
xã
hội
và
phát
triển
hạ
tầng
cơ
sở
không
đồng
bộ
cũng
làm
tăng
cơ
học
những
người
về
sống
ở
đô
thị
lớn,
đặc
biệt
là
trong
vành
đai
nội
đô.
Đổ
lỗi
cho
phương
tiện
cá
nhân
và
tìm
cách
đánh
vào
túi
tiền
để
buộc
người
ta
sử
dụng
phương
tiện
khác
không
phải
là
thượng
sách.
Bởi
vì
có
mấy
người
muốn
đi
xe
máy,
ôtô
riêng
nếu
thành
phố
có
nhiều
phương
tiện
giao
thông
công
cộng
thuận
tiện?
Nhiều
luật
gia
đã
phân
tích
sự
phi
lý
của
những
loại
phí
mới
được
đề
xuất
này.
Thứ
nhất
là
trái
quy
định
của
pháp
luật
về
phí.
Phí
là
tiền
mà
người
sử
dụng
dịch
vụ
phải
trả
cho
nhà
cung
cấp,
nhưng
hạn
chế
lưu
thông
không
phải
là
một
dịch
vụ
và
vì
vậy
không
thể
nào
thu
phí
được.
Thứ
hai
là
việc
thu
thêm
phí
hạn
chế
phương
tiện,
phí
vào
nội
đô
giờ
cao
điểm
dẫn
đến
tình
trạng
phí
chồng
phí.
Đó
là
trái
nguyên
tắc
của
pháp
luật
vì
trên
một
đầu
xe,
một
loại
hoạt
động,
người
dân
chỉ
phải
nộp
một
loại
phí.
Cũng
như
đối
với
một
tội
thì
người
phạm
tội
chỉ
phải
chịu
một
bản
án,
không
thể
mỗi
lúc
lại
tuyên
thêm
cho
họ
một
bản
án.
Với
thực
trạng
như
ông
vừa
phân
tích
thì
việc
thu
các
loại
phí
như
đề
xuất
sẽ
có
tác
động
như
thế
nào?
-
Trước
hết
là
tác
động
đến
người
dân
và
doanh
nghiệp.
Với
người
thu
nhập
khá
thì
một
năm
nộp
thêm
500.000
đồng
thì
cũng
không
sao,
nhưng
với
một
công
nhân
lương
chừng
1,2-1,5
triệu
đồng
thì
mỗi
tháng
phải
bỏ
ra
vài
chục
nghìn
đồng
cũng
là
số
tiền
khá
lớn
với
họ.
Còn
người
đi
ôtô,
không
hẳn
tất
cả
đều
giàu.
Có
người
phải
đi
ôtô
vì
nhà
quá
xa
nơi
làm
việc
hoặc
hoàn
cảnh
gia
đình,
nghề
nghiệp
bắt
buộc.
Đối
với
họ,
bỏ
ra
chục
triệu,
vài
chục
triệu
không
hề
dễ
dàng.
Ngoài
việc
đóng
những
khoản
phí
do
sở
hữu
phương
tiện
giao
thông
cá
nhân,
trong
trường
hợp
sử
dụng
xe
ôm,
taxi,
người
dân
còn
phải
gián
tiếp
đóng
thêm
một
khoản
do
những
phương
tiện
trên
tăng
giá
dịch
vụ
để
bù
đắp
thiệt
hại
mà
những
loại
phí
mới
đem
lại.
Đối
với
doanh
nghiệp
lắp
ráp
và
người
kinh
doanh
ôtô,
xe
máy,
chắc
chắn
họ
sẽ
ế
hàng
do
ít
người
mua.
Ế
hàng
thì
ảnh
hưởng
đến
doanh
thu
và
đời
sống
của
lao
động.
Người
lao
động
đã
phải
trả
nhiều
loại
phí
cho
phương
tiện
cá
nhân
của
mình,
giờ
lại
tiếp
tục
chịu
thiệt,
mà
thiệt
hại
lớn
nhất
là
có
thể
mất
việc
do
doanh
nghiệp
không
bán
được
hàng.
Việc
thu
hai
loại
phí
này
cũng
tác
động
đến
ngân
sách
nhà
nước.
Thoạt
nhìn,
ai
cũng
nghĩ
ngân
sách
sẽ
tăng
nhiều,
nhưng
nghĩ
kỹ
thì
tăng
không
đáng
kể.
Vì
từ
nhà
sản
xuất
đến
nhà
kinh
doanh
xe
máy,
ôtô
không
bán
được
hàng
thì
thuế
nộp
vào
ngân
sách
nhà
nước
chắc
chắn
phải
giảm
đi.
Đối
với
xã
hội,
điều
dễ
thấy
là
giữa
cơn
bão
trượt
giá,
mọi
thứ
đều
tăng
giá
trong
khi
lương
thì
giữ
nguyên,
việc
tăng
thu
phí
chỉ
tiếp
tục
làm
giảm
thu
nhập
và
tăng
thêm
tâm
trạng
bức
xúc
của
người
dân.
Ngoài
ra,
việc
thu
phí
này
cũng
không
đảm
bảo
công
bằng.
Bởi
vì
tuy
cùng
có
xe
nhưng
người
dùng
ít,
người
dùng
nhiều,
như
cùng
có
ôtô
nhưng
có
người
chỉ
dùng
mỗi
tháng
1-2
lần
và
có
người
sử
dụng
hằng
ngày.
Pháp
luật
quy
định
công
dân
được
quyền
tự
do
đi
lại.
Việc
thu
phí
ôtô
vào
nội
đô
giờ
cao
điểm
có
phải
là
vi
phạm
pháp
luật?
-
Theo
tôi,
nên
sử
dụng
biện
pháp
hạn
chế
một
số
phương
tiện
vào
từng
thời
điểm
trên
những
đường
phố
nhất
định.
Giả
thiết
chỉ
có
dân
ngoại
thành,
ngoại
tỉnh
mới
phải
nộp
phí
vào
nội
đô
thì
điều
đó
không
công
bằng
đối
với
các
công
dân
này.
Còn
nếu
dân
nội
đô
đã
phải
đóng
phí
hạn
chế
phương
tiện
giao
thông
ở
nội
đô,
rồi
mỗi
lần
ra
ngoại
thành,
ngoại
tỉnh
trở
về
lại
đóng
thêm
một
lần
phí
nữa
để
về
nhà
thì
họ
lại
thiệt
thòi
quá.
Bộ
trưởng
Thăng
có
lần
nói
anh
đi
ôtô
anh
phải
nộp
tiền
vì
Nhà
nước
không
có
tiền
làm
đường
cho
ôtô
của
anh.
Nói
vậy
là
không
đúng.
Người
có
ôtô
cũng
như
người
không
có
đều
phải
đóng
thuế
cho
Nhà
nước.
Trong
số
người
mua
ôtô,
có
không
ít
người
thu
nhập
cao,
họ
đã
phải
đóng
thuế
thu
nhập
cao.
Mua
ôtô,
họ
cũng
phải
nộp
thuế,
nộp
phí.
Nhà
nước
có
trách
nhiệm
làm
đường,
làm
cầu,
đảm
bảo
giao
thông
thông
suốt
và
an
toàn
cho
họ
cũng
như
cho
mọi
người
dân,
không
kể
mức
đóng
góp
ít
hay
nhiều.
Cũng
có
ý
kiến
của
nhà
quản
lý
hỏi
người
dân
lấy
đâu
tiền
mua
ôtô?
Theo
tôi,
người
dân
có
thể
hỏi
quan
chức
lấy
đâu
ra
tiền
mua
ôtô,
biệt
thự,
chứ
quan
chức
không
thể
hỏi
dân
như
vậy.
Quan
chức
nhà
nước
với
đầy
đủ
bộ
máy
quản
lý
trong
tay
phải
kiểm
soát
được
thu
nhập
của
người
dân.
Ai
làm
giàu
bất
chính
phải
bị
xử
lý,
người
không
bị
toà
án
kết
tội
làm
giàu
bất
chính
hoàn
toàn
có
quyền
chi
tiêu
mua
sắm
theo
ý
họ,
miễn
là
không
vi
phạm
pháp
luật,
đạo
đức.
Khi
đề
xuất
các
loại
phí,
Bộ
Giao
thông
thường
dẫn
chứng
một
số
nước
như
Trung
Quốc,
Singapore...
cũng
thu
các
loại
phí
đó.
Ông
nhìn
nhận
thế
nào
về
sự
so
sánh
này?
-
Nếu
như
phương
tiện
giao
thông
công
cộng
ở
Việt
Nam
mà
hiện
đại
như
Singapore,
Nhật
Bản,
thậm
chí
chỉ
như
Trung
Quốc
thôi
thì
người
dân
chọn
đi
phương
tiện
công
cộng,
chứ
tội
gì
đi
xe
cá
nhân
để
vừa
mất
tiền
mua,
tiền
bảo
trì,
tiền
xăng,
tiền
gửi
xe,
vừa
lo
lắng
về
những
rủi
ro
có
thể
gặp
phải
trên
đường.
Tôi
đi
các
nước
phát
triển
của
châu
Á,
châu
Âu,
châu
Mỹ,
bạn
bè
tôi
ai
cũng
có
ôtô
riêng
nhưng
rất
ít
khi
sử
dụng.
Có
ông
Bộ
trưởng
Giáo
dục
Pháp
cũng
đi
tàu
điện
ngầm
đến
cơ
quan
hằng
ngày.
Trước
đây
Hà
Nội
có
hệ
thống
xe
điện
đi
đến
mọi
ngóc
ngách
của
thành
phố.
Sau
đó
chúng
ta
thiếu
điện,
thấy
xe
điện
nằm
chình
ình
giữa
phố,
vô
dụng
quá
nên
bóc
đi.
Có
phương
tiện
công
cộng
chở
được
rất
nhiều
người,
nhiều
hàng
hóa
lại
bóc
đi,
đó
là
do
tầm
nhìn
chiến
lược
của
chúng
ta
còn
hạn
chế.
Xe
buýt
đang
hồi
phục
trở
lại
nhưng
chất
lượng
thì
kém
xa
ngày
xưa:
bỏ
bến,
phóng
nhanh
vượt
ẩu,
không
hiếm
trường
hợp
nhà
xe
đánh
hành
khách...
Phương
tiện
giao
thông
vừa
không
đi
đúng
giờ,
vừa
khó
chịu
như
vậy
thì
ai
lựa
chọn?
Ông
đánh
giá
thể
nào
về
mối
tương
quan
giữa
thu
phí
và
hiệu
quả
giảm
ùn
tắc?
-
Bộ
trưởng
cho
rằng
thu
thật
nhiều
phí
thì
sẽ
hạn
chế
được
xe
cá
nhân,
từ
đó
giảm
tắc
đường.
Nhưng
tôi
cho
rằng
không
thể
làm
được
điều
đó,
bởi
điều
kiện
tiên
quyết
để
giảm
ùn
tắc
là
phát
triển
phương
tiện
giao
thông
công
cộng
và
đường
giao
thông,
chứ
không
phải
là
tăng
thu
phí.
Thu
phí
không
thể
làm
người
ta
ít
đi
xe.
Điều
này
giống
như
có
tăng
học
phí,
tăng
viện
phí
thì
người
dân
cũng
phải
cố,
chỉ
trừ
những
người
quá
nghèo
khó
mới
cho
con
nghỉ
học
hoặc
nằm
nhà
chờ
chết.
Nhưng
Nhà
nước
ta
đâu
có
bỏ
mặc
dân
như
thế.
Thế
nên
việc
tăng
các
khoản
phí
giao
thông
chẳng
giải
quyết
được
gì.
Làm
cho
dân
khó
khăn
khi
lưu
thông
trên
đường,
tôi
nghĩ
đó
không
phải
là
điều
Bộ
trưởng
Thăng
mong
muốn.
Nếu
đề
xuất
của
Bộ
Giao
thông
được
thông
qua
thì
ảnh
hưởng
như
thế
nào
đến
gia
đình
ông?
-
Con
cái
lập
gia
đình
và
ở
riêng
hết
rồi,
hiện
nhà
tôi
chỉ
có
hai
người,
một
xe
máy.
Vợ
tôi
làm
ở
viện
nghiên
cứu,
cơ
quan
chật
hẹp
nên
làm
việc
ở
nhà
là
chính,
mỗi
tuần
chỉ
đến
viện
hai
lần
bằng
xe
ôm.
Còn
tôi
đã
về
hưu,
mỗi
tuần
chỉ
ra
khỏi
nhà
một
lần
bằng
xe
máy,
lương
cũng
khá
nên
việc
đóng
phí
500.000
đồng
một
năm
với
chúng
tôi
không
thành
vấn
đề.
Tôi
cho
rằng
Bộ
trưởng
Thăng
là
người
sốt
sắng
lo
giải
quyết
công
việc,
dám
hành
động
dám
chịu
trách
nhiệm.
Tôi
từng
lên
tiếng
ủng
hộ
ông
và
mong
muốn
các
bộ
trưởng
khác
cũng
hành
động
quyết
liệt
hơn.
Chỉ
có
điều,
làm
gì
cũng
phải
nghĩ
cho
sâu,
nhìn
cho
xa.
Chính
sách
đề
ra
phải
hợp
lý,
hợp
tình.
Ép
dân
không
phải
là
cách
phục
vụ
dân.
So
sánh
với
các
nước,
phải
thấy
hạn
chế,
yếu
kém
ở
nước
mình
là
hạn
chế,
yếu
kém
của
Nhà
nước,
đừng
giải
quyết
bằng
cách
trút
thêm
gánh
nặng
cho
dân.