So
tháng
8/2011
với
tháng
7/2011,
thì
nợ
nhóm
1
tăng
0,37%,
nhóm
2
giảm
0,44%,
còn
nợ
xấu
tăng
0,07%.
Nợ
xấu
toàn
hệ
thống
tổ
chức
tín
dụng
đến
hết
tháng
8/2011
ở
mức
chấp
nhận
được,
với
tỷ
trọng
3,21%/tổng
dư
nợ,
nhưng
trong
bức
tranh
chung
vẫn
nổi
lên
hai
điểm
đáng
ngại:
nguy
cơ
thất
thoát
trên
33
nghìn
tỷ
đồng
tiền
vốn
và
vùng
kinh
tế
Bắc
Trung
bộ
đang
là
điểm
đen
của
nợ
xấu.
Số
liệu
từ
một
đơn
vị
nghiệp
vụ
của
Ngân
hàng
Nhà
nước
cho
thấy,
tính
đến
hết
tháng
8/2011,
tỷ
lệ
nợ
nhóm
1
(đủ
tiêu
chuẩn)
chiếm
90,89%,
nợ
nhóm
2
(cần
chú
ý)
chiếm
5,89%,
nợ
không
đủ
tiêu
chuẩn
(còn
gọi
là
nợ
xấu
từ
nhóm
3,
4,
5)
chiếm
3,21%.
So
tháng
8/2011
với
tháng
7/2011,
thì
nợ
nhóm
1
tăng
0,37%,
nhóm
2
giảm
0,44%,
còn
nợ
xấu
tăng
0,07%.
Chưa
kịp
mừng,
đã
vội
lo
Tính
đến
hết
tháng
8/2011,
tổng
dư
nợ
toàn
ngành,
kể
cả
quy
đổi
ngoại
tệ,
ước
đạt
trên
2,3
triệu
tỷ
đồng,
tăng
trên
34
nghìn
tỷ
đồng,
tương
ứng
tăng
1,45%
so
với
tháng
trước
và
tăng
9,58%
so
với
31/12/2010.
Điểm
đáng
mừng
trong
bức
tranh
nợ
toàn
ngành
của
tháng
8/2011
chính
là
nợ
nhóm
1
tăng
gần
40
nghìn
tỷ
đồng
mặc
dù
ở
tháng
7/2011,
tỷ
lệ
nợ
này
giảm.
Lý
do
nợ
nhóm
1
của
tháng
8
tăng
là
do
tỷ
lệ
nợ
nhóm
2/tổng
dư
nợ
của
tháng
này
kéo
xuống
mức
5,89%
sau
khi
giảm
được
0,44%
so
với
tháng
trước.
Và
mặc
dù
biểu
đồ
nợ
nhóm
1
và
2
diễn
biến
ngược
chiều
theo
hướng
tích
cực
(nợ
nhóm
1
tăng,
nợ
nhóm
2
giảm),
nhất
là
khi
cơ
cấu
2
nhóm
nợ
này
chiếm
tới
96,78%/tổng
dư
nợ
nhưng
không
vì
thế
mà
mối
lo
nợ
xấu
lại
nhẹ
đi.
Đầu
tiên,
tính
đến
hết
tháng
8,
nợ
xấu
toàn
ngành
ở
mức
trên
76
nghìn
tỷ
đồng
và
nếu
xét
về
tốc
độ
tăng
thì
nợ
xấu
của
tháng
8
vẫn
tăng
0,07%
so
với
tháng
7/2011.
Điều
đáng
lo
là
từ
đầu
năm
đến
nay,
nợ
xấu
liên
tục
tăng,
nếu
so
với
thời
điểm
tháng
8/2010
thì
nợ
xấu
đã
tăng
từ
mức
2,53%
lên
3,21%.
Trong
tổng
số
nợ
xấu
trên
76
nghìn
tỷ
đồng
nói
trên
thì
cơ
cấu
nợ
nhóm
3
chiếm
30,18%,
nhóm
4
chiếm
20,53%
và
nhóm
5
chiếm
trên
49%.
Theo
quyết
định
493
về
phân
loại
nợ
và
trích
lập
dự
phòng
rủi
ro
thì
nợ
nhóm
5
là
“nợ
có
khả
năng
mất
vốn”.
Điều
đó
đồng
nghĩa,
các
tổ
chức
tín
dụng
có
nguy
cơ
mất
trắng
khoảng
33
nghìn
tỷ
đồng.
Mặc
dù
nếu
so
sánh
với
tổng
dư
nợ
toàn
hệ
thống
thì
nợ
nhóm
3
chiếm
0,97%,
nhóm
4:
0,66%,
nhóm
5
chiếm
1,58%
và
nợ
xấu
vẫn
ở
mức
an
toàn.
Tuy
nhiên,
đáng
lo
là
tỷ
trọng
nợ
nhóm
5
lên
tới
1,58%
và
chiếm
một
nửa
số
nợ
không
đủ
tiêu
chuẩn.
Và
nếu
các
tổ
chức
tín
dụng
không
có
kế
hoạch
đốc
thúc
thu
hồi
nợ
thì
con
số
mất
trắng
trên
33
nghìn
tỷ
đồng
là
nguy
cơ
nhãn
tiền.
Điều
đáng
lưu
ý
là
trong
số
114
tổ
chức
tín
dụng
hiện
nay,
mặc
dù
số
lượng
tổ
chức
tín
dụng
có
nợ
xấu
đã
giảm
mạnh
so
với
tháng
trước,
nhưng
vẫn
có
tới
39
đơn
vị
có
tỷ
lệ
nợ
không
đủ
tiêu
chuẩn
tăng
mạnh.
Đơn
cử
một
số
đơn
vị
có
nhiều
nợ
xấu
tăng
là
các
ngân
hàng
thương
mại
cổ
phần
Việt
Nam
Thương
Tín,
Đệ
Nhất,
Công
ty
Tài
chính
Dầu
khí,
Ngân
hàng
Liên
doanh
Việt
Thái,
Ngân
hàng
United
Overseas
Bank…
Tuy
nhiên,
trái
ngược
với
các
đơn
vị
để
nợ
xấu
tăng
cao,
vẫn
có
nhiều
đơn
vị
kiểm
soát
nợ
xấu
rất
tốt
mà
ABBank
là
một
ví
dụ.
Theo
đó,
hết
tháng
8/2011,
nợ
nhóm
1
của
ABBank
tăng
cao
nhất
của
khối
ngân
hàng
thương
mại
cổ
phần
với
mức
tăng
3,67%
trong
khi
nợ
nhóm
2
giảm
mạnh
nhất
so
với
toàn
hệ
thống
với
mức
3,43%.
Đặc
biệt,
trong
tháng
8,
nợ
xấu
ABBank
giảm
3,65%,
trong
đó,
nợ
nhóm
4
và
5
giảm
rất
mạnh
so
với
tháng
trước
ở
mức
âm
0,15%
và
âm
0,14%.
“Chúa
Chổm”
ở
Bắc
Trung
Bộ!
Tính
đến
hết
tháng
8/2011
so
với
tháng
7/2011,
dư
nợ
cho
vay
vùng
kinh
tế
Bắc
Trung
Bộ
tăng
thêm
2,3
nghìn
tỷ
đồng,
tương
ứng
tăng
2,15%;
còn
so
với
31/12/2010,
con
số
trên
tăng
vượt
13
nghìn
tỷ
đồng,
tương
ứng
tăng
trên
13%.
Trong
đó,
nợ
nhóm
1
chiếm
92,43%,
nhóm
2:
5,63%
và
nhóm
3,4,5
chiếm
1,95%
trên
dư
nợ
cho
vay
của
vùng.
So
với
8
vùng
kinh
tế
cả
nước
thì
nợ
xấu
ở
Bắc
Trung
Bộ
đang
là
nỗi
lo
ngại
thực
sự
cho
các
tổ
chức
tín
dụng
giải
ngân
vào
khu
vực
này.
Cụ
thể,
nợ
không
đủ
tiêu
chuẩn
(nhóm
3,
4,
5)
vùng
này
đến
hết
tháng
8/2011
ước
đạt
2,1
nghìn
tỷ
đồng,
chiếm
2,8%
nợ
không
đủ
tiêu
chuẩn
toàn
hệ
thống.
Điều
đáng
lưu
ý
là
trong
3
tháng
liền,
nợ
xấu
của
vùng
tiếp
tục
tăng
mạnh.
Còn
so
với
31/12/2011,
nợ
không
đủ
tiêu
chuẩn
của
vùng
tăng
1,11%,
trung
bình
mỗi
tháng
trong
8
tháng
đầu
năm,
nợ
xấu
tăng
gần
0,14%/tháng.
Trong
tổng
số
nợ
xấu
2,1
nghìn
tỷ
đồng
nói
trên,
nợ
nhóm
3
chiếm
54,38%;
nhóm
4
chiếm
32,23%
và
nhóm
5
chiếm
13,39%.
Như
vậy,
những
tổ
chức
tín
dụng
bị
dính
nợ
nhóm
5
ở
khu
vực
này
đang
đối
mặt
với
thất
thoát
vốn
287,7
tỷ
đồng.
Trong
số
các
tỉnh
ở
Bắc
Trung
Bộ
thì
Nghệ
An
là
địa
phương
đứng
đầu
về
tốc
độ
tăng
nợ
xấu
với
mức
0,83%,
sau
đó
là
Thừa
Thiên
Huế:
0,48%,
Quảng
Trị:
0,43%,
Hà
Tĩnh:
0,12%
và
cuối
cùng
là
Thanh
Hóa
với
0,02%.
Quan
sát
tổng
thể
nợ
xấu
toàn
hệ
thống
ngân
hàng,
thấy
nổi
lên
một
số
điểm
chú
ý:
Trước
hết,
tốc
độ
tăng
nợ
xấu,
đặc
biệt
là
ở
các
nhóm
3,
4,
5
tăng
liên
tục
qua
các
tháng.
Đây
là
điều
đáng
lo
khi
mà
thời
điểm
cuối
năm,
các
ngân
hàng
đứng
trước
áp
lực
thu
hồi
vốn
trả
khách
hàng
để
họ
chi
trả
thanh
lý
hợp
đồng;
có
thêm
nguồn
thực
hiện
các
cam
kết
tài
chính;
kết
chuyển
sổ
sách
cuối
năm.
Những
áp
lực
này
càng
tăng
thêm
khi
mà
tốc
độ
tăng
trưởng
tiền
gửi
đang
có
dấu
hiệu
chững
lại.
Thứ
hai,
tốc
độ
tăng
nợ
xấu
cao,
tỷ
trọng
nợ
xấu
ở
các
nhóm
4,
5
lan
rộng
thêm
trong
cơ
cấu
nợ
không
đủ
tiêu
chuẩn,
sẽ
là
những
tín
hiệu
lo
ngại
về
nguy
cơ
thất
thoát
vốn
ở
các
tổ
chức
tín
dụng.
Ở
một
bình
diện
khác,
Ngân
hàng
Nhà
nước
vẫn
kiên
trì
với
chính
sách
thắt
chặt
tiền
tệ:
tăng
trưởng
tín
dụng
không
quá
20%
trong
năm
nay;
đồng
thời,
đến
31/12/2011,
họ
phải
đưa
tỷ
trọng
tín
dụng
phi
sản
xuất
từ
22%
xuống
16%.
Như
vậy,
chẳng
những
tín
dụng
không
được
bơm
tiếp
mà
còn
bị
thu
hẹp
lại,
dẫn
đến
các
dự
án
sẽ
gặp
nhiều
khó
khăn,
nhất
là
các
dự
án
đang
dính
vào
nợ
nhóm
4
và
5.
Lúc
đó,
các
tổ
chức
tín
dụng
sẽ
khó
lấp
liếm
được
nợ
xấu
và
quá
trình
mất
vốn
sẽ
lộ
diện
nhanh
hơn.
Thứ
ba,
quan
sát
gần
đây
trên
thị
trường
thấy
rằng,
một
số
đơn
vị
đã
có
những
xáo
trộn
về
nhân
sự
lãnh
đạo.
Theo
đó,
một
số
ngân
hàng
đề
bạt
tổng
giám
đốc
xuất
thân
từ
nghiệp
vụ
chính
là
kế
toán,
kiểm
toán,
nhiều
năm
làm
kiểm
soát
nội
bộ
như
ABBank;
hoặc
trong
ban
điều
hành
của
MB
có
một
phó
tổng
giám
đốc
với
nghề
chính
là
kế
toán,
kiểm
soát
nội
bộ.
Điều
này
cho
thấy,
những
đơn
vị
nào
biết
lo
giữ
hầu
bao,
“ăn
chắc,
mặc
bền”,
nhất
là
trong
bối
cảnh
thị
trường
diễn
biến
phức
tạp,
đơn
vị
đó
sẽ
kiểm
soát
tốt
rủi
ro
và
vẫn
cân
đối
nguồn
lành
mạnh.