TS
Nguyễn
Ngọc
Cường
chuyên
gia
về
vật
lý
môi
trường
từ
Mỹ
trở
về
Việt
Nam.
Ông
là
tác
giả
nhiều
loại
máy
xử
lý
mùi
bằng
công
nghệ
enzyme,
công
nghệ
oxy
hoá
sâu,
máy
làm
nước
đá
tiệt
trùng,
xử
lý
độc
tố
trong
rượu,
xử
lý
nước
thải
công
nghiệp,
máy
tách
protein
ra
khỏi
nước
thải,
hệ
thống
cưỡng
bức
oxy
hoà
tan
áp
dụng
cho
vuông
tôm…
Công
nghệ
không
bắt
kịp
thị
trường
Với
chừng
ấy
công
trình,
nhưng
ông
Cường
thú
thiệt
chưa
biết
thị
trường
Việt
Nam
như
thế
nào!
Nói
miền
Tây
đói
công
nghệ
cũng
đúng,
ông
đã
giới
thiệu
45
công
nghệ
hoá
học,
55
công
nghệ
vật
lý,
vật
lý
điện
tử…
cho
một
trung
tâm
nghiên
cứu
ứng
dụng
địa
phương
và
hầu
hết
đều
mới
mẻ
so
hiểu
biết
của
trung
tâm
này.
Nếu
giải
thích
cặn
kẽ,
để
làm
ra
những
loại
máy
móc,
thiết
bị
là
không
quá
khó
với
nguồn
nhân
lực
địa
phương.
Nhiều
máy
chỉ
làm
hai
ngày
là
xong,
nhưng
vấn
đề
là
làm
rồi
bán
ở
đâu?
TS
Cường
chia
sẻ
kinh
nghiệm
khi
xử
lý
tiếng
ồn
từ
một
vũ
trường
ở
miền
Trung:
ở
đó,
người
chủ
tìm
đúng
người
biết
công
nghệ
và
người
nắm
bí
quyết
công
nghệ
tìm
được
khách
hàng.
Ông
Jorg
Rosenberger,
phó
tổng
giám
đốc
công
ty
Nienstedt
(Đức),
nghiên
cứu,
khảo
sát
thực
trạng
ngành
thuỷ
sản
tại
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
nói
về
hiện
trạng
máy
móc,
thiết
bị
mà
các
doanh
nghiệp
tại
Việt
Nam
sử
dụng.
Hầu
hết
có
xuất
xứ
ASEAN
và
châu
Á
do
giá
rẻ
và
dễ
sử
dụng,
khá
giống
nhau
về
công
nghệ.
nên
khi
người
tiêu
dùng
châu
Âu
chuyển
sang
tiêu
thụ
các
loại
sản
phẩm
chế
biến
sẵn,
có
thể
sử
dụng
được
ngay
thì
doanh
nghiệp
Việt
Nam
gặp
khó
khăn.
Dù
cá
tra
là
một
trong
những
loại
có
giá
bán
cao
nhất
ở
thị
trường
EU
nhưng
cách
tạo
sản
phẩm
mới,
bao
bì,
tiếp
thị,
quảng
bá
sản
phẩm
của
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
chưa
có
sức
hấp
dẫn.
PGS.TS
Võ
Văn
Sơn,
phó
giám
đốc
trung
tâm
R&D
thuộc
công
ty
Vemedim,
chuyên
nghiên
cứu
–
sản
xuất
thuốc
thú
y,
thuỷ
sản
nói
nhờ
công
ty
tăng
cường
trang
thiết
bị,
dành
kinh
phí
thích
đáng,
nhân
lực
đáp
ứng
yêu
cầu
nghiên
cứu
ứng
dụng
các
tiến
bộ
khoa
học
và
công
nghệ
(KH&CN),
sản
phẩm
của
Vemedim
đã
xuất
khẩu
sang
25
quốc
gia.
Theo
ông
Sơn,
ứng
dụng
công
nghệ
gắn
chặt
với
xu
hướng
thị
trường,
gắn
với
liên
kết
dọc,
liên
kết
ngang
sẽ
tránh
được
tình
trạng
có
đơn
vị
nhập
thiết
bị
rất
tốt
về
rồi
“trùm
mền”.
Nhiều
nguồn
lực
nhưng
khó
ráp
nối
Thực
tế
ở
các
địa
phương
doanh
nghiệp
KH&CN
đếm
trên
đầu
ngón
tay.
Khi
mọi
nguồn
kinh
phí
do
doanh
nghiệp
tự
lo
thì
mối
quan
tâm
giữa
doanh
nghiệp
và
các
chương
trình
quốc
gia
hoặc
địa
phương
hiếm
khi
trùng
khớp.
Ông
Trần
Việt
Thanh,
thứ
trưởng
bộ
KH&CN,
băn
khoăn:
“Vì
sao
vai
trò
KH&CN
chưa
thể
hiện
được?”
Ông
cho
rằng
việc
đầu
tư
nghiên
cứu
KH&CN
dàn
trải,
manh
mún
thiếu
tập
trung,
thiếu
tính
liên
kết
trong
nghiên
cứu,
triển
khai,
ứng
dụng
nên
hiệu
quả
ứng
dụng
thấp.
Đầu
tư
phát
triển
nâng
cao
nguồn
lực
nghiên
cứu
ứng
dụng
ở
các
địa
phương
chưa
được
chú
trọng.
Thực
tế
đang
đòi
hỏi
sự
quyết
tâm
cao
để
KH&CN
đóng
góp
vào
sự
phát
triển
kinh
tế
–
xã
hội”.
TS
Võ
Hữu
Thoại,
phó
viện
trưởng
viện
Cây
ăn
quả
miền
Nam,
cho
biết
một
chi
tiết
nhỏ
nhưng
ảnh
hưởng
lớn
tới
nguồn
nhân
lực
KH&CN:
nếu
sử
dụng
anh
em
đúng
mục
đích,
chỉ
cần
chi
tiết
“không
có
phụ
cấp
thâm
niên
cho
khối
khoa
học”
thì
nạn
“chảy
máu
chất
xám”
lập
tức
sẽ
xuất
hiện.
Đã
có
4/14
tiến
sĩ,
15/50
thạc
sĩ
đã
rời
viện
chỉ
vì
lý
do
đơn
giản:
không
đủ
sống.
Lực
lượng
ở
lại
nghiên
cứu,
theo
TS
Thoại,
lại
vướng
khi
bán
bản
quyền
giống
thanh
long
tím
hồng
(2
tỉ
đồng
cho
công
ty
thanh
long
Hoàng
Hậu)
thì
các
tỉnh
không
hài
lòng
vì
“viện
cứ
giúp
cho
nhà
giàu
tiếp
tục
giàu,
không
giúp
nông
dân”.
Trong
khi
đó,
việc
đầu
tư
chọn
tạo
giống,
đã
tạo
vật
liệu
khởi
đầu
rồi,
nhưng
không
đủ
kinh
phí
nghiên
cứu
tiếp
thì
không
ai
tiếp
sức!
Bộ
KH&CN
khích
lệ
doanh
nghiệp
tham
gia
các
chương
trình
phát
triển
công
nghệ
với
cơ
chế
đặt
hàng.
Tuy
nhiên,
các
doanh
nghiệp
cho
rằng:
cơ
chế
quản
lý
chưa
đồng
bộ,
cơ
chế
tài
chính
chưa
hấp
dẫn
doanh
nghiệp
trong
và
ngoài
nước,
trình
độ
và
năng
lực
nguồn
nhân
lực
KH&CN
còn
thiếu,
chưa
đáp
ứng
được
lĩnh
vực
chuyên
sâu,
năng
lực
tài
chính
của
các
tổ
chức
KH&CN
yếu
kém,
chủ
yếu
dựa
theo
ngành
chủ
quản…
Nếu
những
nguyên
nhân
này
không
được
khắc
phục,
mô
hình
hoạt
động
và
mục
tiêu
đầu
tư
của
các
tổ
chức
KH&CN
không
được
nghiên
cứu,
điều
chỉnh
lại
thì
hoạt
động
KH&CN
sẽ
không
bảo
đảm
tính
hiệu
quả.
Doanh
nghiệp
và
các
nguồn
lực
khác
sẽ
khó
ráp
nối
dù
tất
cả
đều
nói
về
KH&CN.
Hoàng
Lan
ĐBSCL
có
khả
năng
xuất
khẩu
18
tỉ
USD
Ông
Đặng
Huy
Đông,
thứ
trưởng
bộ
Kế
hoạch
và
đầu
tư
cho
biết
dự
thảo
về
quy
chế
thí
điểm
liên
kết
vùng
đồng
bằng
sông
Cửu
Long
(ĐBSCL)
giai
đoạn
2014
–
2019
đang
được
bổ
sung
hoàn
chỉnh
để
trình
Thủ
tướng
Chính
phủ
phê
duyệt.
Nếu
làm
tốt
liên
kết
vùng,
trong
đó
có
liên
kết
phát
triển
sản
phẩm
chủ
lực,
sản
xuất
quy
mô
lớn,
tạo
sản
lượng
hàng
hoá
lớn,
thì
trong
vòng
ba
năm
tới
giá
trị
xuất
khẩu
của
vùng
có
khả
năng
tăng
từ
10
tỉ
USD
hiện
nay
lên
18
tỉ
USD,
thu
nhập
bình
quân
đầu
người
sẽ
đạt
khoảng
1.000
USD/năm.
“Vì
sao
ĐBSCL
có
nhiều
tiềm
năng,
đóng
góp
rất
lớn
cho
kinh
tế
cả
nước
nhưng
lại
là
“vùng
trũng”
về
nhiều
mặt?
Cần
xem
lại
tư
duy
công
nghiệp
hoá
nông
nghiệp”,
TS
Trần
Du
Lịch,
uỷ
viên
uỷ
ban
Kinh
tế
Quốc
hội,
nói.
PGS.TS
Vũ
Trọng
Khải,
chuyên
gia
độc
lập
về
kinh
tế
nông
nghiệp
–
phát
triển
nông
thôn,
cho
rằng:
“Phải
xây
dựng
lại
chiến
lược
sản
phẩm
trên
phạm
vi
quốc
gia,
từng
vùng,
tiểu
vùng
nông
nghiệp
sinh
thái,
căn
cứ
dự
báo
thị
trường
trong
và
ngoài
nước,
dựa
vào
lợi
thế
so
sánh
và
lợi
thế
cạnh
tranh
của
quốc
gia
và
của
mỗi
vùng,
không
theo
đơn
vị
hành
chính
tỉnh,
huyện,
xã.
Trên
cơ
sở
đó,
xây
dựng
lại
quy
hoạch
và
kế
hoạch
phát
triển
kết
cấu
hạ
tầng
thuỷ
lợi,
giao
thông,
bến
cảng,
kho
bãi,
các
cơ
sở
logistics...”
Đức
Toàn |
(báo
Thế
Giới
Tiếp
Thị)