Người
ngoài
“bắt
tay”
Một
số
kết
quả
nghiên
cứu
trở
thành
sản
phẩm
thương
mại
nhờ
có
sự
đầu
tư
ngoài
ngân
sách
hoặc
từ
nguồn
tài
chính
của
tác
giả.
Năm
2005,
PGS.TS.
Bùi
Minh
Lý
ở
Viện
Nghiên
cứu
và
Ứng
dụng
công
nghệ
Nha
Trang
(Nitra)
thuộc
Viện
Hàn
lâm
khoa
học
và
công
nghệ
Việt
Nam
(VAST)
chiết
xuất
thành
công
hoạt
chất
sinh
học
fucoidan
ở
một
đề
tài
nghiên
cứu
trong
thời
gian
hai
năm.
Sau
đó,
ông
Lý
tiếp
tục
nghiên
cứu
sử
dụng
fucoidan
để
bào
chế
dược
liệu
hỗ
trợ
điều
trị
tích
cực
cho
một
số
bệnh.
Tuy
nhiên
sau
nhiều
năm,
việc
biến
kết
quả
nghiên
cứu
thành
sản
phẩm
thương
mại
vẫn...
giậm
chân
tại
chỗ.
Cho
đến
khi
người
nhà
của
ông
Vũ
Minh
Tiến
sử
dụng
fucoidan
do
Nitra
chế
tạo
thấy
có
hiệu
quả.
Vốn
là
một
doanh
nhân
trong
lĩnh
vực
thực
phẩm,
ông
Tiến
nghĩ
đến
việc
phát
triển
kết
quả
nghiên
cứu
này
thành
sản
phẩm
thương
mại.
Giữa
năm
2008,
ông
có
sự
tiếp
xúc
đầu
tiên
với
Nitra.
Tám
tháng
sau,
Công
ty
cổ
phần
Fucoidan
Việt
Nam
được
thành
lập
với
sự
góp
vốn
của
nhiều
tổ
chức,
cá
nhân.
Nitra
là
một
cổ
đông
với
tỷ
lệ
góp
vốn
bằng
5%
vốn
điều
lệ.
Góp
vốn
của
Nitra
bằng
chính
kết
quả
nghiên
cứu,
được
định
giá
bằng
số
tiền
ngân
sách
đã
đầu
tư
cho
quá
trình
nghiên
cứu.
Đầu
năm
2010,
Fucoidan
Việt
Nam
đã
giới
thiệu
sản
phẩm
đầu
tiên
ra
thị
trường.
Ông
Vũ
Minh
Tiến,
Giám
đốc
Fucoidan
Việt
Nam,
đang
rất
lạc
quan
về
triển
vọng
thương
mại
hóa
các
sản
phẩm
của
công
ty.
Có một loại thuốc đã được sử dụng để hỗ trợ cắt cơn nghiện trong các trại cai nghiện tập trung hơn một năm qua nhưng chưa được phép bán rộng rãi. Đó là Heantos 4 (tên thương mại). GS.TSKH. Trần Văn Sung, Giám đốc Công ty Heantos, cựu Viện trưởng Viện Hóa học Việt Nam, cho biết đây là kết quả sau 17 năm nghiên cứu đầy tâm huyết và trong quá trình thử nghiệm lâm sàng, đã có lúc có nguy cơ phải dừng lại vì thiếu kinh phí.
Nhờ
một
nhóm
nhà
đầu
tư
thấy
triển
vọng
của
sản
phẩm
nên
đã
hỗ
trợ
2
tỉ
đồng
để
hoàn
thành
việc
thử
nghiệm.
Sau
khi
kết
thúc
thử
nghiệm,
Heantos
được
Bộ
Y
tế
công
nhận.
Năm
2013,
cùng
với
những
nhà
đầu
tư
góp
2
tỉ
đồng
trước
đó,
các
nhà
khoa
học
tham
gia
nghiên
cứu
đã
bỏ
thêm
tiền
cùng
thành
lập
Công
ty
cổ
phần
Heantos.
“Không
có
những
nhà
đầu
tư
bên
ngoài,
nhóm
nghiên
cứu
không
mạnh
dạn
bỏ
tiền
túi
ra
để
thành
lập
công
ty,
thì
dù
có
được
nghiệm
thu
xuất
sắc,
kết
quả
nghiên
cứu
cũng
bị
xếp
vào
hộc
tủ
như
nhiều
công
trình
nghiên
cứu
khác”,
ông
Sung
nói.
Nhà
khoa
học
tự
thương
mại
hóa
Trong
số
28
sản
phẩm
thương
mại
của
Công
ty
TNHH
Sinh
học
Phương
Nam
có
27
sản
phẩm
được
thương
mại
hóa
từ
những
kết
quả
nghiên
cứu
khoa
học
cấp
viện,
cấp
sở
và
của
các
tổ
chức
quốc
tế
tài
trợ
kinh
phí.
TS.
Võ
Thị
Hạnh,
Giám
đốc
công
ty
Phương
Nam,
cựu
Trưởng
phòng
Vi
sinh
nhớ
lại,
từ
đầu
những
năm
2000,
bà
đã
xin
Viện
Sinh
học
Nhiệt
đới
(ITB)
thuộc
VAST
thành
lập
xưởng
để
sản
xuất
các
chế
phẩm
từ
những
kết
quả
nghiên
cứu
bán
cho
các
đơn
vị
bên
ngoài.
Đến
năm
2009,
khi
lượng
khách
hàng
gia
tăng,
xưởng
không
đáp
ứng
đủ
nhu
cầu
sản
phẩm,
bà
Hạnh
nghĩ
đến
việc
tìm
địa
điểm
sản
xuất
quy
mô
lớn
hơn.
Năm
2013,
những
nhân
viên
của
phòng
vi
sinh
nghỉ
việc
ở
ITB
cùng
nhau
thành
lập
công
ty
sản
xuất,
thương
mại
hóa
những
kết
quả
nghiên
cứu
của
mình.
Nhà
máy
Công
ty
Phương
Nam
đặt
tại
Khu
công
nghiệp
Xuyên
Á,
huyện
Đức
Hòa,
tỉnh
Long
An
chuyên
sản
xuất
các
chế
phẩm
sinh
học
phục
vụ
trồng
trọt,
chăn
nuôi,
nuôi
trồng
thủy
sản
và
xử
lý
môi
trường.
Giá
bán
sản
phẩm
của
công
ty
thấp
hơn
từ
5-10
lần
sản
phẩm
ngoại
nhập
và
chủ
yếu
bán
sỉ
cho
các
nhà
bán
lẻ.
Bà
Hạnh
chia
sẻ
trước
khi
nghiên
cứu
một
đề
tài
nào
đó,
tiêu
chí
bà
đặt
ra
là
kết
quả
nghiên
cứu
phải
ứng
dụng
được
vào
thực
tiễn.
“Chưa
có
kết
quả
nghiên
cứu
nào
tôi
không
thương
mại
hóa
được.
Nếu
không
thương
mại
hóa
được
ngay
sau
khi
nghiệm
thu,
tôi
sẽ
tiếp
tục
hoàn
thiện
nó”,
bà
Hạnh
nói.
Bà
Hạnh
giải
thích
việc
các
sản
phẩm
của
nhóm
nghiên
cứu
có
giá
rẻ
là
nhờ
tài
sản
trí
tuệ
của
tập
thể
công
ty
nghiên
cứu,
nguyên
liệu
chế
tạo
có
sẵn
trong
nước
và
từ
những
phế
phẩm,
phụ
phẩm
của
ngành
nông
nghiệp
và
các
ngành
chế
biến
khác.
Theo
bà
Hạnh,
sản
phẩm
của
nhóm
nghiên
cứu
không
khác
sản
phẩm
nước
ngoài
nhưng
giá
sản
phẩm
nước
ngoài
cao
do
chi
phí
vận
chuyển
về
Việt
Nam
lớn,
định
giá
tài
sản
trí
tuệ
cao
và
phần
khác
là
do
tâm
lý
sính
ngoại
của
người
bán
cũng
như
người
mua.
Bản
quyền
trí
tuệ
Khi
còn
là
xưởng
sản
xuất
trong
khuôn
viên
Viện
ITB,
bà
Hạnh
luôn
trả
tiền
sở
hữu
trí
tuệ
cho
viện
qua
doanh
thu
từ
bán
hàng.
Từ
khi
ra
thành
lập
công
ty
riêng,
bà
không
còn
trả
khoản
tiền
ấy
nữa.
Bà
Hạnh
thừa
nhận,
đúng
ra
phải
làm
việc
này,
tuy
nhiên,
Viện
ITB
hay
sở
khoa
học
-
công
nghệ
(KH-CN)
không
yêu
cầu.
Vào
tháng
5-2014,
Sở
KH-CN
TPHCM
chuyển
giao
kết
quả
nghiên
cứu
tận
dụng
nước
thải
sản
sau
chưng
cất
cồn
để
sản
xuất
chế
phẩm
sinh
học
phục
vụ
nông
nghiệp,
cũng
không
yêu
cầu
trả
tiền
bản
quyền.
Trong khi đó, ông Sung cho biết Viện VAST rất ủng hộ việc thương mại hóa sản phẩm Heantos 4. Về mặt bản quyền công nghệ, tác giả được quy định theo doanh số bán hàng ở từng mức cụ thể và có thời hạn trong năm năm, sau đó sẽ xem xét lại. Viện Hóa học cũng chấp nhận cho sử dụng trang thiết bị, lao động khoa học của viện, nhưng phải trả tiền trong quá trình phục vụ cho việc tiếp tục nghiên cứu sản phẩm này.
Với
Công
ty
Fucoidan
Việt
Nam,
bản
quyền
về
công
nghệ
được
định
giá
bằng
5%
số
tiền
góp
vốn
vào
công
ty
cổ
phần
này.
Tương
đương
với
số
tiền
ngân
sách
đã
đầu
tư
cho
việc
nghiên
cứu
để
ra
được
sản
phẩm
Fucoidan.
Ông
Trần
Xuân
Đích,
Phó
cục
trưởng
Cục
Phát
triển
thị
trường
và
doanh
nghiệp
KH-CN
thuộc
Bộ
KH-CN,
cho
biết
việc
định
bản
quyền
công
nghệ,
bản
quyền
trí
tuệ
bằng
số
tiền
ngân
sách
đã
đầu
tư
hiện
nay
là
hợp
lý.
Dù
hiện
đã
có
những
quy
định
hướng
dẫn
về
việc
định
giá
bản
quyền
công
nghệ,
bản
quyền
tác
giả
trong
các
kết
quả
nghiên
cứu
khoa
học
khi
chuyển
giao
nhưng
chưa
được
rõ
ràng.
Bộ
KH-CN
đang
xây
dựng
thông
tư
hướng
dẫn
việc
này
và
sẽ
sớm
được
ban
hành
trong
thời
gian
tới.
Ông
Đào
Minh
Đức,
Trưởng
phòng
Sở
hữu
trí
tuệ,
Sở
KH-CN
TPHCM
giải
thích:
“Về
nguyên
tắc,
bên
nào
đầu
tư
tài
chính
thì
bên
đó
là
chủ
sở
hữu
kết
quả
nghiên
cứu.
Tuy
nhiên,
giữa
người
nghiên
cứu
và
đơn
vị
đầu
tư
tài
chính
vẫn
có
thể
có
những
thỏa
thuận
khác.
Để
sử
dụng
vào
mục
đích
thương
mại
hoặc
mục
đích
khác,
nhà
khoa
học,
kể
cả
doanh
nghiệp
bên
ngoài
có
thể
gửi
công
văn
đến
chủ
sở
hữu
xin
được
sử
dụng
kết
quả
nghiên
cứu”.
Thương mại hóa những... “sáng chế chân đất” Đã có những công trình sáng chế mà các chủ nhân của nó tự bỏ tiền túi, tự mày mò nghiên cứu, tốn không ít thời gian và tạo ra được những sản phẩm phục vụ hữu ích cho đời sống. 1. Anh Nguyễn Uy Long Bảo, ở quận 9, TPHCM mất gần chục năm thai nghén và chế tạo hoàn chỉnh loại giường dành cho bệnh nhân nằm một chỗ. Ưu điểm của loại giường này là hai vạt giường thay phiên nhau đỡ người nằm phía trên, tránh để cơ thể tiếp xúc một chỗ lâu ngày gây hoại tử. Đặc biệt, việc thay tấm trải giường tránh dịch chuyển cơ thể bệnh nhân, giảm đau đớn cho họ. Loại giường này đã được cấp bằng độc quyền sáng chế vào năm 2010. Sau một năm thương mại, anh Bảo đã bán lẻ được khoảng 300 chiếc giường theo phương thức nhận đặt hàng, chuyển tiền, giao giường. 2. Anh Nguyễn Trọng Hào, một luật sư ở quận Tân Bình, đã bỏ ra không dưới 300 triệu đồng và hơn hai năm nghiên cứu, chế tạo máy đục khoan đa năng. Loại máy này có công dụng khoan tường gạch, bê tông mà không dùng điện. Khi dùng búa đập vào cán (đuôi) đục, lực tác động sẽ ép mũi khoan vào tường và làm xoay mũi khoan giống khoan máy. Tuy không thể nhanh bằng khoan máy nhưng dễ sử dụng và thích hợp với quy mô gia đình, với những công việc không cần phải khoan nhiều. Với giá 200.000 đồng/đục, sau hai năm đã có hơn 20.000 sản phẩm được bán ra. 3. Bắt nguồn từ những trăn trở giải quyết các công việc nhà nông sao cho nhanh hơn, anh Nguyễn Hồng Chương ở xã Lạc Lâm, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng đã nghiên cứu, chế tạo ra nhiều dụng cụ như máy gieo hạt cho các vườn ươm rau quả, máy xay đất mùn, máy đóng đất vào vỉ xốp, đóng đất vào bịch nylon, đóng đất vào chậu... Sau gần bảy năm, anh Chương đã bán được gần 1.000 máy các loại. Việc xuất khẩu máy ra nước ngoài bắt đầu vào năm 2010 khi anh bán được hai máy gieo hạt đầu tiên cho Malaysia, tổng trị giá 7.600 đô la Mỹ. Cho tới nay đã có hơn 200 máy các loại của anh được xuất sang Malaysia, Lào, Đài Loan, Hồng Kông. Từ nghề nông, anh Chương nay đã trở thành chủ Cơ sở Nghiên cứu ứng dụng máy nông nghiệp Hồng Chương. 4. Nhưng không phải sáng chế nào cũng có bước đầu thành công như vậy. Như trường hợp của anh Lê Tiến Thắng (quận Thủ Đức, TPHCM) với thiết bị tiết kiệm gas. Thiết bị đã được bảo hộ độc quyền, đã bán được hơn 10.000 sản phẩm, tuy nhiên, có lúc anh Thắng phải ngưng sản xuất vì một số linh kiện nhập khẩu có giá quá cao. Mới đây, khi tìm được nguồn linh kiện thay thế, anh mới sản xuất trở lại. Gần đây, anh Thắng cũng đã sản xuất, thương mại bộ cảnh báo rò rỉ gas - một sáng chế đang chờ được bảo hộ. Chức năng của thiết bị là khi phát hiện có rò rỉ gas, có khói, hoặc nhiệt độ trong bếp vượt quá 700 độ C thì sẽ tự động ngắt gas. Thiết bị còn có chế độ hẹn giờ tắt bếp. Theo anh Thắng, dù sản phẩm có nhiều tính năng, giá bán không cao, nhưng sau hơn một năm anh cũng chỉ bán được khoảng 1.000 bộ. Hiện anh đang tiếp tục cải tiến để được chấp nhận rộng rãi hơn. |
Nguồn tin: TBKTSG Online
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập : 133
•Máy chủ tìm kiếm : 4
•Khách viếng thăm : 129
Hôm nay : 37627
Tháng hiện tại : 977079
Tổng lượt truy cập : 44344764